Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt
HỒI 8:THĂM BỒ TÁT HỎI VỀ CỬU PHẨM VÃNG SANH VÀ THÂN THẾ PHẬT A DI ĐÀ.
Tế phật: tục ngữ có câu: "quân tử cầu tài,cách lấy có đạo".Nhưng trong xã hội ngày nay,gần như là "tiểu nhân tham tiền,cách lấy vô đạo".Một tờ báo lật ra toàn là chi phiếu khống,chơi hội giựt tiền hay giả danh công ty lừa hàng hóa của người khác,làm cho cõi đời này càng thêm ô trược gian trá,nhưng những người vô lương tâm này,dù có chạy đến chân trời góc bể nào cũng tránh không được ác báo đền trả.
Thái sinh: còn nhớ ân sư có nói :"biết đủ là phước,thanh tâm là lộc,tiết dục là thọ",do đó làm người chỉ cần 'biết đủ,thanh tâm,tiết dục" thì như có được"phúc,lộc,thọ" rồi,còn mong cầu gì nữa.
Tế phật: không ngờ con có trí nhớ tốt vậy,còn nhớ được lời của ta,nhưng mà nếu như lúc nào cũng nhớ niệm phật thì mới là đại phúc,đại lộc,đại thọ.
Thái sinh: đúng vậy,tây phương cực lạc có "tài bảo" xài mãi không hết,phật pháp diệu vị ăn không hết,có tuổi thọ không bao giờ hết.
Tế phật: bây giờ chúng ta đi thôi.
Thái sinh: đúng vậy,con đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: đã đến thế giới cực lạc,trước mặt bồ tát đã đến,con mau đảnh lễ.
(lúc này,Thái sinh 2 chân quỳ xuống đảnh lễ bồ tát)
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: cảm tạ bồ tát.
Bồ tát: ta dẫn con đến ao sen tham quan.
Thái sinh: vâng dạ,.....Ồ,hoa sen trong ao thật sáng sủa và tươi mát,vừa lớn vừa đẹp,đóa hoa sen nào cũng tỏa ra bảo quang ngũ sắc,trên đó còn ghi danh tánh người niệm phật,đúng là thật kỳ diệu.
Bồ tát: hiền sinh,con có muốn nói chuyện với người trong hoa sen không ?
Thái sinh: được sao ?
Bồ tát: đóa hoa sen trước mặt sắp nở rồi,đợi ta niệm chân ngôn trợ giúp,để con phỏng vấn.
<lúc này,bồ tát miệng niệm chân ngôn,quả nhiên hoa sen nở mau hơn,lập tức trồi ra một người,thật là bất khả tư nghì>.
Thái sinh: bồ tát đúng là pháp lực vô biên,hoa sen quả nhiên nở ra một người cư sĩ.
Bồ tát: hiền sinh,con hãy hỏi thăm anh ta thử xem.
Thái sinh: dạ.xin hỏi vị đại đức này,cảm tưởng của anh ra sao ?
Đại Thiện nhân: nhớ khi còn tại thế thì thật là khổ cực,vì không biết chữ,chỉ làm công việc lặt vặt tại một công xưởng,chỉ kiếm một ít tiền xài vặt,có một ngày,trong lòng cảm thấy buồn chán quá mới đến một ngôi chùa thỉnh giáo vị thầy,hỏi ông ta có cách nào giải trừ phiền não,vị thầy dạy tôi niệm phật,nói niệm phật có thể vãng sanh cực lạc,từ đó tôi bắt đầu niệm phật,lấy tất cả tiền bạc kiếm được đi ấn tống sách thiện,sau đó hồi hướng tất cả về cõi cực lạc tây phương,sau 3 năm quả nhiên phiền não của tôi ngày càng giảm dần,thân thể cảm thấy nhẹ nhàng,thường xuyên nếm được mùi vị pháp hỷ,từ đó tôi càng tinh tấn hơn,bất luận nơi đâu,trong tâm tôi đều không ngừng niệm phật,sau đến phút lâm chung được phật bồ tát tiếp dẫn vãng sanh,nhưng tự biết mình đới nghiệp(mang tội) vãng sanh,vì thế hoa sen chưa nở được liền,hôm nay hoa nở gặp được bồ tát,thật là vui quá.
Bồ tát: đó là phước đức của con trợ giúp,nếu như con không thường xuyên dấu tên tạo công đức,thì sẽ không có thiện duyên này đâu.
Đại Thiện nhân: cảm tạ bồ tát từ bi.
Thái sinh: xin hỏi bồ tát,sau khi vãng sanh,khoảng bao lâu thì hoa sen mới nở.
Bồ tát: phải xem công phu cao thấp của người niệm phật,do đó vãng sanh chia ra 9 phẩm :
1.thượng phẩm thượng sanh: sau khi vãng sanh,lập tức hoa sen nở gặp ngay phật a di đà.
2.thượng phẩm trung sanh: sau 1 đêm,hoa sen nở gặp ngay phật a di đà.
3.thượng phẩm hạ sanh: sau 1 ngày 1 đêm,hoa sen nở gặp đức a di đà.
4.trung phẩm thượng sanh: sau khi vãng sanh,hoa sen nở nhưng chỉ chứng quả vị nhỏ.
5.trung phẩm trung sanh: sau 7 ngày hoa sen nở,chỉ chứng quả vị nhỏ.
6.trung phẩm hạ sanh: cũng sau 7 ngày hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp,sau chứng quả nhỏ.
7.hạ phẩm thượng sanh: sau 49 ngày hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp,sau chứng quả nhỏ.
8.hạ phẩm trung sanh: trải qua 6 kiếp hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp để khai ngộ rồi chứng quả nhỏ.
9.hạ phẩm hạ sanh: trải qua 12 kiếp hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp để khai ngộ rồi chứng quả nhỏ.
Thái sinh: nếu như vậy,chỉ cần niệm phật vãng sanh thế giới cực lạc,thì sẽ không lưu chuyển trong lục đạo luân hồi nữa ?
Bồ tát: đúng vậy,trừ khi có người lập nguyện đi hoằng pháp lợi sanh ở một thế giới khác,không ở trong này.Do đó,phàm là người niệm phật vãng sanh,sau khi sanh ra từ hoa sen,họ sẽ một mực tu lên mãi cho đến thành phật,mãi không thoái chuyển.
Thái sinh: tại sao lại vi diệu như vậy ? con thấy những người tu hành trong đạo trường thường gãy gánh giữa đường.
Bồ tát: hiền sinh,hồng trần khổ hải,ngũ trược ác thế,đương nhiên là vậy,nhưng sau khi đến đây,con xem,toàn là làm bạn với thiện tri thức và đại bồ tát,ăn nước bát công đức,tăng trưởng trí tuệ,thân tâm an hòa thanh lương,nghe chim nước diễn pháp,tăng tiến phật trí,sẽ tự nhiên sản sinh ra tâm niệm phật,trong hoàn cảnh thù thắng như vậy làm nơi tu trì,còn hơn thâm sơn cùng cốc tại phàm trần,cũng không có nguy hiểm và phần trăm thất bại,đó là lợi ích của thế giới tây phương cực lạc.
Thái sinh: Ồ,hay thật,vậy là khi đến đây thì nhất định thành phật rồi ?
Bồ tát: đúng vậy,đa số là tu đến phật quả.Đây cũng là một trong những đại nguyện của phật a di đà : "nếu ta thành phật,bồ tát tại phương khác sanh đến đất nước ta,nếu không tu đến quả phật,ta thề không thành phật".
Thái sinh: Ồ, a di đà phật thật từ bi.
Bồ tát: a di đà phật không những từ bi,mà lúc chưa thành phật,ngài là một vị quốc vương,cha tên là Nguyệt Thượng chuyển luân thánh vương,mẹ gọi là Thù Thắng Diệu Nhan phu nhân,vì Ngài thích nghe phật pháp,nên thường đến nơi ở của Thế Tự Tại Vương Phật nghe giảng phật pháp,có một ngày,Ngài tự nhiên giác ngộ nên bỏ vương vị theo Thế Tự Tại Vương Phật xuất gia tu hành,lúc đó pháp danh của Ngài là Pháp Tạng,Pháp Tạng vì túc duyên thâm hậu,lại năng tu phật pháp,vì thế rất mau đạt thành tựu,không những thế Ngài còn quỳ trước Thế Tự Tại Vương Phật phát 48 lời nguyện.
Thái sinh: gồm những nguyện nào ?
Bồ tát: 48 lời nguyện gồm........
Tế phật: hôm nay thời giờ đã trễ,48 lời nguyện rất dài,để kỳ sau nghe tiếp.
Thái sinh: dạ,cảm tạ bồ tát từ bi,đệ tử đảnh lễ từ biệt.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,hồi sau gặp lại.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững đài sen,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 9: THĂM BỒ TÁT THUẬT 48 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT.
Tế phật: trong một cái giếng đã hư vỡ,có một bầy ếch,bọn nó cho rằng trên đời này chỉ có một cái giếng chúng đang ở thôi,hiền đồ,con nghĩ sao ?
Thái sinh: bởi vì thế mà tục ngữ có câu: "ếch ngồi đáy giếng".
Tế phật: bởi vì 3 ngàn đại thiên thế giới như biển lớn mà nơi con người ở như cái giếng,người ở trên đời như ếch trong giếng vậy.
Thái sinh: đúng vậy,trách gì bí mật của vũ trụ đến giờ vẫn là một câu đố.
Tế phật: hôm nay chúng ta sẽ khai mở một chút câu đố này.
Thái sinh: đương nhiên,quyển du ký này viết xong sẽ cho người đời hiểu rõ hơn về bí mật của vũ trụ.
Tế phật: haha,Đạo đức kinh có nói: "bậc thượng nghe đạo,siêng năng thực hành,bậc trung nghe đạo,lúc nhớ lúc quên,bậc hạ nghe đạo,thì cười lớn".
Thái sinh: đúng vậy,người có phước lớn nghe đến phật pháp thì tin liền,người không có phước,khi nghe đến phật pháp không những không trân trọng mà còn hủy báng,người như vậy thật vô phước.
Tế phật: lời chúng ta đã nói hết,tin hay không thì tùy,haha,hôm nay thời gian viết sách đã đến,trò ngoan mau ngồi vững đài sen,chuẩn bị khởi hành.
Thái sinh: dạ,con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: hồi trước,bồ tát hứa giảng nói 48 lời nguyện,con còn nhớ không ?
Thái sinh: còn nhớ,hôm nay con đã sẵn sàng lắng nghe rồi.
Tế phật: hiện tại,bồ tát đã đến tiếp dẫn,hiền sinh mau đảnh lễ.
Thái sinh: hạ sinh đảnh lễ bái kiến bồ tát.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mau theo ta đi.
Thái sinh: vâng ạ,cảm tạ bồ tát từ bi.
Bồ tát: hiền sinh có muốn biết 48 lời nguyện của phật a di đà không ?
Thái sinh: đương nhiên muốn biết.
Bồ tát: được rồi,bây giờ ta sẽ nói cho con biết.
48 lời đại nguyện của đại từ đại bi a di đà phật :
1.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,còn địa ngục,ngạ quỉ,súc sanh thì bất thủ chánh giác.
2.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,trời người thọ chung còn sa tam ác đạo thì bất thủ chánh giác.
3.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người thân không màu vàng ròng thì bất thủ chánh giác.
4.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người hình sắc bất đồng hoặc xấu đẹp khác nhau thì bất thủ chánh giác.
5.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có túc mạng thông,cho đến hiểu được các việc trong trăm ngàn ức kiếp na do tha thì bất thủ chánh giác.
6.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thiên nhãn thông,cho đến thấy được trăm ngàn ức kiếp na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
7.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thiên nhĩ thông,cho đến nghe được trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
8.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có tha tâm thông,cho đến hiểu được tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
9.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thần túc thông,cho đến trong một niệm không đạt tới trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
10.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn có tà tư vọng niệm,tham lam phi nghĩa,bất thủ chánh giác.
11.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn người không tu thiền định,thì sẽ diệt độ,bất thủ chánh giác.
12.giả sử sau khi ta thành phật,nếu phật quang của ta không chiếu đến trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
13.giả sử sau khi ta thành phật,nếu thọ mệnh không đạt đến trăm ngàn ức na do tha kiếp,bất thủ chánh giác.
14.giả sử sau khi ta thành phật,nếu thanh văn la hán trong phật thổ của ta có thể đếm được,bất thủ chánh giác.
15.giả sử sau khi ta thành phật,trong phật thổ của ta,tất cả trời người thọ mạng không đạt vô lượng;trừ những người lập nguyện đến nơi khác độ sinh,bất thủ chánh giác.
16.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn nghe đến việc bất thiện,bất thủ chánh giác.
17.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương thế giới vô lượng chư phật không tán thán danh hiệu ta,bất thủ chánh giác.
18.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương thế giới chúng sanh có thể phát lòng tin thành kính,muốn sanh cõi nước ta,cho đến 10 niệm mà không sanh,bất thủ chánh giác.Trừ người phạm tội ngũ nghịch(1.giết cha;2.giết mẹ;3.giết a la hán;4.hủy báng phật đà,phản bội phật đà,phá hoại thân phật;5.phá hoại đoàn thể tu hành hay tăng đoàn)đại tội và hủy báng chánh pháp.
19.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương thế giới chúng sanh phát bồ đề tâm,tu tâm dưỡng tánh,tạo lập công đức,thành tâm thành ý phát nguyện,muốn sanh cõi nước của ta,đến lúc thọ chung,nếu như phật bồ tát không hiện ra trước mặt,bất thủ chánh giác.
20.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương thế giới chúng sanh,nghe đến danh hiệu ta,lúc nào cũng nhớ đến cõi nước ta,thực hành đạo đức,chí thành hồi hướng,muốn sanh nước ta,nếu như không đạt nguyện vọng,bất thủ chánh giác.
21.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không đủ 32 tướng đại nhân,bất thủ chánh giác.
22.giả sử sau khi ta thành phật,chúng bồ tát tại cõi phật khác sanh đến nước ta,nhất định một đời đạt quả phật.Trừ bổn nguyện độ thoát tất cả chúng sanh,du chư phật quốc,tu bồ tát hạnh,cúng dường 10 phương chư phật như lai,khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh,để thành tựu vô thượng chánh giác,bất thủ chánh giác.
23.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta nhờ phật thần lực cúng dường chư phật,trong thời gian một buổi ăn,nếu không đến được vô lượng vô số ức na do tha chư phật,bất thủ chánh giác.
24.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta ở trước chư phật,cầu vật cúng dường mà không như nguyện,bất thủ chánh giác.
25.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta không thể diễn nói tất cả trí tuệ,bất thủ chánh giác.
26.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta không có được thân kim cang na la diên,bất thủ chánh giác.
27.giả sử sau khi ta thành phật,vạn vật trong cõi nước ta vi diệu thơm sạch,hình sắc đặc biệt,không thể đếm được,nếu có thể dùng thiên nhãn thông đếm được số lượng,bất thủ chánh giác.
28.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta và trời người ít công đức không thể thấy biết đạo tràng và vô lượng quang sắc cao 4 triệu dặm,bất thủ chánh giác.
29.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta thọ đọc kinh pháp,diễn thuyết mà không được trí tuệ biện tài,bất thủ chánh giác.
30.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trí tuệ biện tài của bồ tát trong cõi nước ta có hạn lượng,bất thủ chánh giác.
31.giả sử sau khi ta thành phật,nếu ánh sáng trên mặt đất cõi nước ta không thể chiếu đến 10 phương vô số bất khả tư nghì thế giới chư phật,bất thủ chánh giác.
32.giả sử sau khi ta thành phật,trong cõi nước ta,cung điện,lầu các,chùa quán,ao sen,nước chảy,hoa cỏ,cây cối và tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp bảo,trăm ngàn thứ hương thơm hợp thành,mùi thơm trải đầy 10 phương thế giới,bồ tát ngửi được đều tu phật hạnh,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
33.giả sử sau khi ta thành phật,nếu chúng sanh trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới chư phật,tiếp xúc với ánh sáng của ta,thân không mềm mại hơn cả trời người,bất thủ chánh giác.
34.giả sử sau khi ta thành phật,nếu chúng sanh trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới chư phật,nghe danh hiệu ta,không đạt sâu bồ tát vô sanh pháp nhẫn tổng trì,bất thủ chánh giác.
35.giả sử sau khi ta thành phật,trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới,có người nữ nghe danh hiệu ta,hoan hỷ tin sâu,phát bồ đề tâm,chán ghét thân nữ,sau khi mệnh chung,còn thọ thân nữ,bất thủ chánh giác.
36.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương vô lượng vô biên chư bồ tát,nghe danh hiệu ta,sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh cho đến thành phật,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
37.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương vô lượng vô biên chư thiên nhân dân,nghe danh hiệu ta,năm vóc sát đất,khể thủ tác lễ,hoan hỷ tin sâu,tu bồ tát hạnh,không được chư thiên thế nhân kính trọng,bất thủ chánh giác.
38.giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong cõi nước ta muốn có y phục,tùy niệm mà có,nếu phật tán thán,pháp diệu phục tự nhiên tại thân.Nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
39.giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong cõi nước ta thọ hưởng khoái lạc,nếu không bằng lậu tận tỳ kheo,bất thủ chánh giác.
40.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta muốn thấy 10 phương phật thổ,tùy thời như nguyện,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
41.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,cho tới lúc thành phật,nếu có các căn khuyết lậu không đầy đủ,bất thủ chánh giác.
42.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,đều được thanh tịnh giải thoát tam muội,ở trong tam muội,khởi niệm cúng dường vô lượng bất khả tư nghì chư phật thế tôn mà không mất định ý,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
43.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,sau khi thọ chung sinh nhà tôn quí,nếu như không được,bất thủ chánh giác.
44.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,hoan hỷ tích cực,tu bồ tát hạnh,đầy đủ đức bổn,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
45.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,đều được tam muội,ở trong tam muội cho đến thành phật,thường gặp vô lượng bất khả tư nghì tất cả Như Lai,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
46.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta tùy theo ý nguyện,nếu muốn nghe pháp,tự nhiên được nghe,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
47.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,không tức khắc đạt bất thối chuyển,bất thủ chánh giác.
48.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,không tức khắc đạt đệ nhất,đệ nhị,đệ tam pháp nhẫn,trong phật pháp không tức khắc đạt bất thối chuyển,bất thủ chánh giác.
Sau đó,Ngài dần dần lấy những tâm nguyện này trang nghiêm phật thổ,cuối cùng cũng thành tựu thế giới tây phương cực lạc,thánh hiệu của Ngài A Di Đà Phật được 10 phương thế giới chư bồ tát,thiên nhân,chúng sinh tán thán và trì niệm.
Thái sinh: Ồ,thì ra là vậy,vì thế người đời nên tin tưởng vào sự tồn tại của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Bồ tát: haha,hiền sinh rốt cục cũng hiểu rồi,hiện tại,hoạt phật đưa con về đường.
Tế phật: mau đảnh lễ đáp tạ bồ tát,chúng ta chuẩn bị về thôi.
Thái sinh: khấu tạ ơn bồ tát khai thị.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 10: THĂM BỒ TÁT THUẬT SỰ QUAN TRỌNG CỦA VIỆC LÂM CHUNG NIỆM PHẬT.
Tế phật: haha,mấy tháng nay,vì viết sách mà vân du thế giới cực lạc,tuy rằng bận rộn,nhưng để người đời hiểu rõ bộ mặt thật của thế giới cực lạc nên lão nạp không quản nặng nhọc mà gánh vác mọi thứ.
Thái sinh: ân sư đúng là chí công vô tư,người khác lo giữ chắc môn hộ của mình còn ân sư đại khai môn hộ,dung nạp người khác,trách gì người ta gọi ân sư là Tế Công,thầy làm việc quang minh lỗi lạc,đúng như tu sĩ môn giáo nào đó tôn xưng ân sư là quang minh lỗi lạc phật.
Tế phật: hiền đồ,không ngờ con lại biễt nịnh bợ ta như vậy.
Thái sinh: không phải vậy sao ?
Tế phật: thực ra tu hành là phải chí công vô tư,nếu như có người đạo lý không nói,chỉ nói thị phi,loại người này không phải đang hoằng pháp mà đang tạo khẩu nghiệp.Hôm nay,chúng ta phụng chỉ viết sách cực lạc du ký,ý nghĩa là muốn giới thiệu cho người đời và người tu biết thêm một phương pháp tu trì,biết thêm một cõi phật mà thôi,sao có thể vì lòng tư mà hủy báng thành tựu của người khác được ?
Thái sinh: thầy nói đúng vậy,cái hay nên nói cho người khác biết,cùng nhau chia sẽ,người khác được lợi ích thì mình cũng vui.
Tế phật: vậy chúng ta lên đường thôi.
Thái sinh: được rồi,con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: haha,đang định khởi hành thì bồ tát đã đến tiếp dẫn.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ bồ tát thánh an.
Bồ tát: hôm nay biết hiền sinh đến viết sách du ký nên đến trước một bước.
Thái sinh: thật kỳ lạ,tây phương tịnh độ cách đây 10 muôn ức cõi phật,bồ tát làm sao biết trước được ?
Bồ tát: tuy rằng tây phương tịnh độ cách đây 10 muôn ức cõi phật,nhưng vẫn cùng thế giới sa bà chung ở trong thế giới Thập Phương Thức Nhiên Bảo Quang Minh,vì thế chỉ cần con người có tư tưởng quang minh,thật lòng thành tâm niệm phật thì phật bồ tát tự nhiên biết được.
Thái sinh: thì ra là vậy.
Bồ tát: từ khi viết sách cực lạc du ký đến nay,đã 10 hồi rồi,quang cảnh cực lạc gần như đã giới thiệu đủ trong sách,người đời nếu như không muốn niệm phật,thì dù cho hiền sinh nói rõ ràng từng cái cây cọng cỏ nơi thế giới cực lạc cũng vô ích.
Thái sinh: bồ tát nói rất đúng,trước mắt người đời cũng rất hiện thực,họ nghĩ rằng niệm phật chỉ có lợi sau khi chết,nên đợi đến khi gần chết mới niệm.
Bồ tát: lúc bình thường không niệm,đợi gần chết thì khó niệm.
Thái sinh: đúng vậy.
Bồ tát: thực ra lợi ích của việc niệm phật rất nhiều,đừng nghĩ sau khi chết mới có lợi ích,nên biết phật là y vương,do đó người nào thân thể có bệnh nên niệm phật cho nhiều.
Thái sinh: sao lại như vậy ?
Bồ tát: vì niệm phật có thể thống nhất tâm tư,bài trừ vọng tưởng,con xem người đời thường xuyên vọng tưởng bay nhảy,lao tâm khổ tứ,làm cho bản thân thường xuyên mất ngủ,tinh thần phân liệt,bệnh như vậy là tâm bệnh,tâm bệnh thì không có thuốc chữa,chỉ có niệm phật mới trị được tâm bệnh,vì niệm phật có thể thống nhất tâm tư,làm tâm tán loạn quy về một tâm,tự nhiên trị được tâm bệnh.đúng như quốc sư Trung Phong nói : "phật hiệu như viên ngọc sáng,vọng tưởng của chúng sanh như một ao nước dơ,viên ngọc bỏ vào nước dơ,nước dơ tự nhiên trong sạch,phật hiệu bỏ vào loạn tâm,tâm loạn tự nhiên thành phật".đó là cách trị tâm bệnh hay nhất và cũng là con đường thành phật nhanh nhất.
Thái sinh: bồ tát từ bi,xin hỏi rằng,một người bị bệnh nằm liệt giường,cứt đái dính vào giường,người nữ đến ngày kinh nguyệt,vào nhà vệ sinh,có thể niệm phật được không ?
Bồ tát: đương nhiên được rồi,cần phải biết,phật là đại từ đại bi,cũng như mặt trời phổ chiếu đất lớn,nó không phân biệt phú quí bần tiện,cũng như biển lớn dung nạp trăm sông,nó không phân sạch sẽ hay dơ bẩn;lại giống như người mẹ nhân hậu,bà làm sao bỏ rơi con cái khi nó làm cứt đái đầy giường ? do đó chỉ cần người đời thành tâm thành ý một lòng niệm phật,thì làm sao phật lại nhờm gớm sự dơ bẩn trên hình hài.Bởi vậy người có bệnh càng phải niệm phật,có người trợ niệm càng tốt.Niệm phật có thể chia làm 3 loại: 1.miệng niệm;2.ý niệm;3.quán tưởng niệm phật.nếu như vào nhà vệ sinh,để tỏ lòng tôn kính phật bồ tát,có thể ý niệm,là mặc niệm trong tâm.Nhưng phương pháp niệm đúng nhất là tâm tưởng phật,miệng niệm phật,tai nghe âm thanh niệm phật,như vậy phật âm lưu chuyển trong tâm,khẩu,ý làm cho tam nghiệp thanh tịnh,một khi công phu niệm phật ngày càng sâu,tự tâm tức là phật tâm,tự tánh tức là phật tánh,tự nhiên thành phật.
Thái sinh: đúng vậy,nếu không,đệ tử thường xuyên thấy rất nhiều người,mở miệng là văng tục,đúng thật chẳng hay.
Bồ tát: người đời có thói quen không tốt,đó là thường kết bạn với những kẻ ác,tập nhiễm mà ra,phải nên sửa đổi.Nếu như có thể mở miệng đóng miệng đều sửa thành "a di đà phật",thì có khi được người ta cung kính,càng có thể lây nhiễm người thân bạn bè tu khẩu tu tâm,thay đối thói quen nói tục ác khẩu,lâu ngày,bọn họ sẽ cũng thay miệng nói "a di đà phật",như vậy không phải là cách độ người hữu hiệu sao ?
Thái sinh: nói như vậy,đến khi lâm chung niệm phật thì thật lợi ích.
Bồ tát: đương nhiên rồi,do đó người đến lúc lâm chung cần phải niệm phật không ngừng,nếu như người thân không biết niệm phật thì cần phải khuyên họ,giải thích cho họ lợi ích của việc niệm phật vãng sanh,cùng thân thuộc trợ niệm phật hiệu,nếu như trợ niệm mệt thì luân lưu trợ niệm,làm cho phật âm lưu chuyển không ngừng.không những thế,gia quyến không nên đứng nhìn trước mặt người sắp lâm chung để khỏi làm cho tâm ái luyến khởi sanh,mà âm thanh niệm phật không nên pha vào tiếng khóc,có thể làm cho người lâm chung càng bi thương,nếu có người thân đến thăm,không nên nói chuyện tán gẫu,tránh làm cho người chết phân tâm mà quên niệm phật.Chủ yếu là giây phút thần thức người lâm chung rời khỏi thân xác,không nên ôm xác mà khóc,vì người lâm chung tuy hơi thở và nhịp tim đã ngừng,nhưng linh tánh vẫn còn trong thể xác từ 10 đến 12 tiếng đồng hồ mới rời khỏi,vì thế sẽ vẫn còn tri giác,nếu như gia quyến lúc này lập tức ôm xác khóc,lại làm cho người chết đau buồn hơn,không biết nên đi về đâu,làm mất chánh niệm sáng suốt,thì chỉ sợ chấp mê không ngộ đọa vào trong lục đạo luân hồi.
Thái sinh: ồ,vậy thì thật đáng tiếc,........nhưng tại sao tiếng khóc của người thân lại cản trở con đường vãng sanh vậy ?
Bồ tát: tại vì người niệm phật thì trong ao sen thất bảo tại tây phương sẽ sinh ra hoa sen,nếu như càng siêng năng niệm phật,hoa sen sẽ càng ngày càng lớn,hành công lập đức càng nhiều thì hoa sen càng mau lớn,đợi đến lúc người niệm phật này lâm chung,tây phương chư phật bồ tát mới lấy đài sen dưới hoa sen tiếp dẫn người niệm phật,nếu như người niệm phật đến lúc lâm chung vẫn có thể một lòng niệm phật,thì linh tánh của họ quy hướng vào đài sen,như vậy thì vãng sanh thành công rồi.Còn không,nếu như trong lúc vãng sanh,người lâm chung bị tiếng khóc nhiễu loạn,một lúc động tình ái loạn tâm,ý niệm hôn hôn trầm trầm,như thế thì sẽ trở thành hồn ma tại nhân gian,thì thật đáng tiếc.
Thái sinh: xin hỏi bồ tát,tình hình này xảy ra có liên quan đến nhân duyên nghiệp báo của mình không ?
Bồ tát: đương nhiên là có,vì một số người bình thường không niệm phật,lại không rộng kết duyên lành và hành công lập đức,nên khi lâm chung không có thiện hữu trợ giúp,thân thuộc lại chấp mê không ngộ,trong tình hình như vậy thì khó vãng sanh lắm.
Thái sinh: vì sao ạ ?
Bồ tát: bây giờ ta nói một ví dụ,đại từ đại bi a di đà phật như trăng sáng trên trời,người đời niệm phật như một cái hồ nước,khi hồ nước không sóng,trăng sáng sẽ rõ ràng,người lâm chung niệm phật cũng như vậy,lúc tâm tịnh niệm phật,phật quang phổ chiếu,phật tại trước mắt,phật tại trong lòng,cơ duyên thành thục,cảm ứng tương thông,thừa phật nguyện lực,đều được vãng sanh.
Thái sinh: ồ,thì ra là vậy.
Bồ tát: còn một chỗ phải chú ý,sau khi người lâm chung chết từ 10 đến 12 tiếng,nên tiếp tục trợ niệm,như thế mới siêu độ vong nhân,càng có thể nâng cao sen phẩm,nếu hoàn cảnh cho phép,tốt nhất cả nhà nên ăn chay 49 ngày,ngăn cấm sát sinh,như vậy thì thật lợi ích cho người chết.
Thái sinh: bồ tát thật lao khổ,giảng giải thật cặn kẽ.
Bồ tát: không có gì.
Tế phật: hôm nay đến đây kết thúc,Thái sinh hồn nhập thể xác.
HỒI 11: LA HÁN THUẬT TU TRÌ KHỔ TÂM,HIỀN SINH KHÓC THAN NGƯỜI ĐỜI KHÓ ĐỘ.
Tế phật: con nhện không thể chỉ xây một cái mạng để giữ trọn suốt đời,nó phải trải qua rất nhiều phong ba bão táp,cực khổ gian nan,thất bại hết lần này đến lần khác,đó là thử thách trong cuộc đời của nó.Làm người cũng vậy,cũng phải trải qua rất nhiều thử thách mới thành công,thành công như vậy mới chân thật,mới quí báu,mới ngọt ngào,nếu không nhờ phấn đấu mà thành công,thì là hư ngụy,ngắn ngủi,may rủi.
Thái sinh: lời của ân sư khích lệ người đời phải học tinh thần con nhện,không ngừng phấn đấu.
Tế phật: tu hành cũng vậy,bất luận là trên phương diện tu trì hay hoàn cảnh,cũng sẽ có nhiều lúc thất vọng,cứ như con chuồn chuồn trong phòng không bay ra ngoài được,nhưng chỉ cần bình tĩnh suy nghĩ thì cũng sẽ tìm được một không gian sáng sủa,để nó bay ra.
Thái sinh: đúng như "sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,liễu ám hoa minh lại một thôn".
Tế phật: haha,hiện tại rất nhiều người tu đạo cảm thấy tự mình đi vào "sơn cùng thủy tận nghi vô lộ".
Thái sinh: vậy hôm nay viết sách cực lạc du ký chính là "liễu ám hoa minh lại một thôn" rồi.
Tế phật: đúng vậy,đúng vậy,chúng ta khởi hành.
Thái sinh: vâng ạ,trò ngu đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: haha,bồ tát đã đến trước tiếp dẫn,hiền đồ mau đảnh lễ tham kiến.
Thái sinh: hạ sinh đảnh lễ tham kiến bồ tát.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: cảm tạ bồ tát từ bi.
Bồ tát: hiền sinh,mau đi theo ta.
Thái sinh: vâng ạ.
Bồ tát: hôm nay ta giới thiệu cho con biết một vị thanh văn la hán chuyên tâm niệm phật,con hãy thỉnh giáo ông ta,niệm phật vãng sanh như thế nào ?
Thái sinh: vâng ạ.
Bồ tát: Liên Căn La Hán,mau đến đây.(lúc này bồ tát gọi lại một vị la hán đang tham thiền trong rừng cây)
Thái sinh: đệ tử tham kiến la hán.
La Hán: hiền sinh miễn lễ.
Thái sinh: ngu sinh hôm nay phụng chỉ viết sách mới gặp la hán,lại thấy Ngài tiêu diêu tự tại,đúng là thật hâm mộ
La Hán: trước khổ sau vui,trước vui sau khổ,nhân duyên nhân quả một chút không do người khác,nếu muốn vãng sanh Tây Phương cực lạc,chỉ có niệm phật và tín nguyện,không có gì khác cả.
Thái sinh: không biết la hán lúc còn tại thế tu hành ra sao,hôm nay mới đến đây.
La Hán: cái này mà nói thì thật dài dòng,ta vốn tu tập pháp môn khác,nhưng sau khi được cao nhân chỉ dạy,pháp môn niệm phật là phương pháp tu trì trực tiếp nhất,đơn giản nhất,ngoài ra không còn cái nào tốt hơn.Từ đó,ta hạ quyết tâm một lòng niệm phật,vì sợ mình tín nguyện không kiên định,do đó trước thánh tượng a di đà phật,chí tâm phát nguyện,đốt 3 ngón tay,thể hiện chân tín,chân nguyện,chân hành,cầu phật từ bi nhiếp thọ mà nói :"đệ tử Liên Căn,từ vô thủy đến nay,rộng tạo thập ác bát tà,nói rõ không hết,nay được thân người,tham,sân,si,ái,niệm niệm không dứt,tương lai tuyệt đối đọa vào luân hồi,thọ tận khổ sở,hôm nay thống thiết sám hối,từ đây trở đi,quyết định niệm phật,hư không có tận,ngã nguyện vô cùng,chí tâm ai cầu a di đà phật thường đến hộ trì,đến lúc lâm chung,linh căn bất muội,thân kiến phật a di đà và chư bồ tát tiếp dẫn.Từ đó,ta niệm phật không ngừng nhưng do nghiệp chướng sâu dày nên không đạt được thượng phẩm thượng sanh mà chỉ được trung phẩm thượng sanh,tuy vãng sanh cực lạc,gặp phật nghe pháp nhưng chỉ chứng quả nhỏ,nghiệp hoặc còn chưa lậu tận,nhưng sau khi đến đây,phát hiện hoàn cảnh tu trì tốt hơn nhiều so với thế giới phàm trần,ở đây,mỗi ngày tai nghe phật âm,mũi ngửi tịnh hương,miệng ăn nước bát công đức,mắt nhìn thế giới trang nghiêm,làm bạn với bồ tát,la hán và thượng thiện nhân,phật âm lưu chuyển,chim nước diễn pháp,tiêu diêu vô tận,thọ mạng vô lượng.
Thái sinh: xin hỏi la hán,vì sao thọ mạng vô lượng ?
La Hán: vì đây là đại nguyện thứ 15 của đức a di đà : "giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong nước thọ mạng vô lượng".Vì thế,phàm là những người đến đây đều là bồ tát bất thối chuyển,trừ những người phát nguyện sanh thế giới khác hoằng pháp độ sanh,hiền sinh là một trong số đó.
Thái sinh: không dám,không dám,ngu sinh tội nghiệp sâu dày.
La Hán: hiền sinh từ bi vi hoài,thân làm thang mây cho chúng sanh,tâm linh làm cầu đường cho tam giáo,tinh thần hy sinh cống hiến,làm ta tự trách không bằng,thì khách sáo làm gì.
Thái sinh: la hán quá khen,tiện thân tiện mạng,có gì đáng nói đâu.
(Thái sinh nói đến đây,lệ rơi như mưa,pháp nhãn của ta nhìn thấy cảnh này,pháp lực mất dần,không biết viết gì nữa.....)
La Hán: hiền sinh,không nên bi thương,từng giọt từng giọt nước mắt của con sẽ hóa thành từng đóa từng đóa hoa sen,.....(lúc này,Thái sinh mới kềm lòng gượng cười,nhưng có ai biết được tấm lòng của anh ta vì ai mà khóc).
Thái sinh: ngu sinh lúc nãy thất lễ mong la hán tha thứ.
La Hán: không sao,không sao.
Bồ tát: hiền sinh,sao hôm nay bi thương như vậy ?
Thái sinh: ngu sinh tự thấy nghiệp chướng sâu dày,nhưng lại gánh trách nhiệm phổ hóa,trở ngại thật nhiều,bất giác cảm thấy bi thương.
Bồ tát: hiền sinh,nước mắt nam nhi không dễ chảy,con có hoằng nguyện độ sanh,do đó cả đời nếm trọn cay đắng ngọt bùi,vì chúng sanh mà bỏ tình cảm riêng tư,ta đã hiểu được,không nên quá bi thương.
Thái sinh: cầu bồ tát tha thứ,ngu sinh vì định lực chưa đủ nên mới thất lễ.
Bồ tát: hiền sinh quá khách sáo,được rồi,hôm nay phỏng vấn đến đây tạm ngừng.(lúc này,Tế phật đã đến,Thái sinh đã ngồi vững đài sen,chuẩn bị ra về).
Tế phật: hiền đồ,con lấy tâm đau khổ đầu vào tâm linh của chúng sinh,như vậy không đúng đâu,trong thời gian viết sách,con không bình tâm tịnh khí,thì thật không đúng,con phải cất những bước đi bình an,dẫn dắt chúng sanh đến bến bờ chân lý,lấy tài sản chân lý của con bố thí cho những người cần chân lý,cho họ có được lương thực của tâm linh,tuy hy sinh hưởng thụ của bản thân nhưng là một dũng sĩ thật sự.Những năm gần đây,con vì đạo vụ hy sinh sự nghiệp,vì người đời xả bỏ da thịt,tuy con đi theo tinh thần Đại Vũ trị thủy nhưng phải học sự tự tại giải thoát của phật đà.Bởi nếu chỉ nhờ ý chí xông xáo thì không đủ đâu,chỉ dựa vào sức mạnh hữu hình thì có giới hạn.Do đó phải lấy động lực vô hình lâu dài làm chỗ dựa,không nên sợ người ta hủy báng mà đau lòng cũng đừng vì sự khen ngợi của người khác mà vui sướng,vì những thứ đó không thật tại và dư thừa.Hiền đồ,sự việc trên đời không có tuyệt đối,con không nên ôm ấp thật nhiều hy vọng cũng đừng mong người khác luôn thuận theo con,hãy như hư không của thung lũng mà dung nạp người,cũng như biển lớn chứa đựng nước từ muôn sông,chứ không như một cái bàn chỉ để được một vài thứ,như cái ghế chỉ ngồi được một người.Hiền đồ,làm một người gieo truyền chân lý,không thể không có phiền não mà phải xem nhẹ phiền não,làm một người có sự nghiệp phi phàm không thể không sân hận mà phải xem sân hận như không,con có thể làm được như vậy thì là người thành công.Hiền đồ,ta biết yêu cầu của thầy làm khó cho con,nhưng thà rằng con hận ta nhưng hy vọng con có thể yêu thương chúng sanh,đó là lời của ta.
Thái sinh: lời của ân sư,từng câu từng câu khắc ghi trong tâm,con xin ghi nhớ suốt đời.
Tế phật: được rồi,hôm nay thời gian đã trễ,ta về trời đây.
Thái sinh: cung tiễn ân sư.
HỒI 12: THĂM BỒ TÁT GIỚI THIỆU HOÀN CẢNH THÙ THẮNG CỦA THẾ GIỚI CỰC LẠC.
Tế phật: haha,chư sinh lâu rồi không gặp,hôm nay trong đường lại có thêm tấm bảng đen,chắc là dùng cho việc giảng đạo,lão nạp nhìn thấy thật vui,vì chư sinh Thánh Thiên một lòng một dạ tinh tấn hướng thượng,tinh thần siêng năng nổ lực như vậy mới là người tu hành thật sự.
Thái sinh: bổn đường chuẩn bị tấm bảng đen là để ân sư thượng đài giảng đạo.
Tế phật: hiền đồ,không ngờ con cũng biết phân công đó,công việc giảng đạo còn phải lao nhọc ta hay sao ?
Thái sinh: không phải,vì có nhiều người rất thích nghe ân sư giảng đạo nên con mới thỉnh thị thầy.
Tế phật: thật ra trò ngoan nên tự huấn luyện mình,công việc này con phụ trách là thích hợp nhất.
Thái sinh: có thể sao ?
Tế phật: nếu như con không làm thì vĩnh viễn không thể,nếu con cố gắng làm thì sẽ thành công.
Thái sinh: ân sư nói như vậy thì con thử xem sao.
Tế phật: được rồi,hôm nay khởi hành sớm chút xíu.
Thái sinh: ngu đồ đã ngồi vững,xin ân sư xuất phát.
Tế phật: hôm nay mưa gió bão bùng,lão nạp thấy người đời núp ở nhà coi ti vi,duy chỉ chư sinh Thánh Thiên xúm bên sa bàn xem loan tự,thật có ý nghĩa.
Thái sinh: haha,bọn họ xem truyền hình,chúng ta xem truyền thánh linh,bọn họ xem thật hứng thú,chúng ta xem mà pháp hỷ xung mãn.
Tế phật: hôm nay vì để cho con hiểu rõ thế giới tây phương cực lạc cách khổ hải hồng trần bao xa,do đó trên đường vân du sẽ kéo dài thời gian.
Thái sinh: thì ra là vậy,hèn chi lúc nãy đệ tử thấy thế giới dục giới và sắc giới,hiện tại lại thấy thế giới vô hình vô sắc,đúng là kỳ diệu.
Tế phật: đợi một chút là sẽ thấy thế giới cực lạc.
Thái sinh: không ngờ thế giới cực lạc siêu xuất tam giới,đúng là núi cao còn có núi cao hơn.
Tế phật: con hình dung như vậy không đúng.
Thái sinh: đúng vậy,thế giới cực lạc thật sự quá rộng lớn,không như hoàn cảnh cõi phàm quá chật chội,cuộc sống lại căng thẳng như vậy.
Tế phật: trước mặt là Thanh Tịnh bồ tát,Thái sinh mau đảnh lễ.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ tham kiến bồ tát,xin bồ tát chỉ dạy nhiều.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,hôm nay quí đường phụng chỉ viết sách này,là sự kỳ vọng của chư bồ tát tại tây phương,đặc biệt là hôm nay,ta không quản ngàn dặm xa xôi đến tiếp dẫn là do đức đại từ đại bi a di đà phật ra chỉ dụ.
Thái sinh: thì ra là vậy,đúng là thật cảm tạ,nhưng ngày nay do loan đường hoằng dương phật pháp,đúng là thật hiếm có.
Bồ tát: hiền sinh,không lẽ con lại có sự phân biệt môn hộ ?
Thái sinh: không dám,không dám,chỉ vì quyển du ký này là một đại kỳ tích lại vừa có tính đột phá.
Bồ tát: hiền sinh nói như vậy thật đúng,ngày nay phật pháp nhờ loan môn tuyên dương,đó là bất đắc dĩ,vì đại từ đại bi a di đà phật nhìn thấy chúng sinh đời mạt căn tánh ám muội,lại thấy loan môn đặc biệt phổ biến,do đó mới nghĩ đến chọn loan môn viết quyển sách du ký này,phát dương pháp môn tịnh độ,hiền sinh lại có duyên với phật ta,với tấm lòng chí thành hoằng nguyện độ thế nên mới có nhân duyên viết sách hôm nay.
Thái sinh: Ồ,đúng là thật may mắn.
Bồ tát: lúc này đã đến rồi,chúng ta hóng mát dưới cây đi.
Thái sinh: đến nơi đây,xa rời phàm trần nhiễu nhương,thật trang nghiêm sáng sủa,đệ tử không biết hình dung ra sao,chỉ lấy 4 chữ <chỉ biết tán thán> làm chứng cho người đời thôi.....xin hỏi bồ tát,thế giới cực lạc có nhiều bồ tát như vậy,họ tu như thế nào vậy ?
Bồ tát: có tâm tắc thành,có chí tắc thành,có tín tắc thành,đó là yếu tố chính thành bồ tát.
Thái sinh: trước mặt chim nước hót ra pháp âm êm dịu,làm con cảm giác thân tâm khinh an,pháp hỷ xung mãn,đúng là vi diệu.
Bồ tát: những loại chim nước này không phải do tội báo hóa sanh mà là do nguyện lực của phật a di đà tác thành,mục đích là làm cho pháp âm luôn lưu chuyển.
Thái sinh: đúng là vi diệu,xin hỏi bồ tát cây gỗ ở đây sao giống cây trường xuân vậy ?
Bồ tát: những cây gỗ này cũng do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật tạo thành,do đó 4 mùa không tàn,suốt năm xanh tốt,một khi gió thổi vào sẽ làm phát sanh pháp âm vi diệu.
Thái sinh: Ồ,con đã cảm giác được pháp âm đó,sau khi nghe,cả người thanh tịnh,có công năng rửa sạch phiền não,lại làm con có ý muốn niệm phật.
Bồ tát: haha,do đó những người vãng sanh đến thế giới cực lạc,một khi nghe được pháp âm,tự nhiên niệm phật.
Thái sinh: những con đường này đều là màu vàng ròng,lại rất ngay ngắn,trang nghiêm hơn nền đất gạch bông tại nhân gian nhiều.
Bồ tát: đương nhiên rồi,mặt đất toàn phủ đầy cát vàng,cũng do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật tạo thành một thế giới lý tưởng,do đó nếu người đời yêu thích vàng bạc,không bằng niệm phật vãng sanh sẽ ở chung với vàng ròng suốt ngày.
Thái sinh: haha,người giàu lấy vàng làm đồ trang sức,không ngờ đến thế giới cực lạc,vàng trở thành vật đạp dưới chân,ở đâu cũng có,đúng là khác nhau một trời một vực.
Bồ tát: haha,hiền sinh ví dụ thật hay.
Thái sinh: không dám,không dám,bồ tát quá khen,....xin hỏi bồ tát,ở đây đã siêu xuất tam giới,sao còn có hình tướng ?
Bồ tát: đó là do công đức bất khả tư nghì của đại từ đại bi a di đà phật tác thành,con xem,ở đây bồ tát nhiều vô lượng như vậy,làm sao còn trong tam giới.
Thái sinh: nếu đã siêu xuất tam giới,tại sao phàm phu nghiệp chướng sâu dày có thể vãng sanh.
Bồ tát: đó là do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật,cần phải biết,chúng sanh như đang hai tay bám vào bờ vực,phải gấp gút cứu trợ.Tu các pháp môn khác như cố gắng leo lên trên vực thẳm nhưng nếu không đủ sức thì sẽ rơi xuống hố sâu.Còn tu trì pháp môn niệm phật thì không như vậy,như đang leo mà gọi người bên trên giúp đỡ,cuối cùng sống sót.Do đó người trước dựa vào tự lực mà leo,sức mạnh có hạn;người sau nhờ vào sức của mình lẫn của người thì dễ thoát hơn,vì thế mà khác nhau rất xa.
Thái sinh: nếu nói như vậy thì chỉ cần nhất tâm niệm phật,phật bồ tát sẽ nhiếp thọ tiếp dẫn.
Bồ tát: lẽ đương nhiên là "ngàn người tu ngàn người giải thoát,vạn người tu vạn người giải thoát".
Thái sinh: đây đúng là phúc âm quan trọng,vậy con cũng sẽ niệm phật thôi.
Bồ tát: hiền sinh có phải nghĩ đến vấn đề gì phải không ?
Thái sinh: cõi phàm thật đau khổ,mọi thứ trong cuộc sống,áp lực rất lớn,ví dụ như : lên lớp là cái cửa chật hẹp,do đó đi học rất khổ,kiếm việc làm cũng là cái cửa hẹp,cạnh tranh kịch liệt,so tới so lui,chỉ có niệm phật là hơn cả,tu trì dễ dàng,cái cửa thật rộng,đây không phải là một phúc âm lớn sao ?
Bồ tát: hy vọng con có thể đem phúc âm này nói cho người đời.
Thái sinh: Ừ,nhưng phải cần nhiều người thiện tâm ủng hộ mới được.
Bồ tát: lẽ đương nhiên,nhưng ta tin rằng người đời sau khi đọc sách này sẽ nhiệt liệt trợ in.
Thái sinh: hy vọng như vậy,càng hy vọng những người trợ in cực lạc thế giới du ký đều được phật bồ tát gia bị.
Bồ tát: nhất định rồi.
Tế phật: thời gian đã trễ,ta nghĩ viết sách đến đây tạm ngừng,mau khấu biệt bồ tát.
Thái sinh: đệ tử khấu biệt bồ tát,cảm tạ bồ tát khai thị.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,sau này lại gặp.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 13: THĂM TỔ SƯ THUẬT ĐẠO LÝ THẬM THÂM VI DIỆU.
Tế phật: người tu hành không được xem bề ngoài mà nhận định người,nếu không dễ lọt vào chấp trước cực đoan,vào mạt thế đến nay,người đời trí tuệ thô thiển,bệnh chấp rất nặng,chỉ xem bề ngoài mà cho rằng đó là phật sống để lễ lạy,nếu như hôm nay lão nạp đi trên đường,có lẽ chẳng ai thèm nhìn,haha,phật sống thật,phật sống giả,trò ngoan biết được là tốt.
Thái sinh: ân sư nói câu này làm con không biết nên cười hay nên khóc,người đời đều muốn tìm bảo vật,bảo vật lại ở trong tâm,người đời đều muốn tu đạo,đạo ở hai bên,người đời muốn thấy phật sống,phật sống không ai nhận ra.
Tế phật: haha,không nhận ra mới tốt,lão nạp càng tự tại,cũng như con vậy,ở trước mặt con tìm Thái sinh,không biết Thái sinh chính là con.
Thái sinh: ân sư thật biết đùa.
Tế phật: trò ngoan,con không thấy hàng giả mạo sao,rất nhiều đó,ví dụ : đồ trang sức mạ vàng rất giống vàng thật,đá cẩm thạch qua xử lý như đá quí,thủy tinh qua xử lý rất giống kim cương.
Thái sinh: haha,ân sư như một viên bảo châu thật sự,bên ngoài phủ đầy bụi trần,có ai biết được,haha.
Tế phật: vậy thì cho con mượn được rồi.
Thái sinh: được ạ,trò ngu sẽ lau sạch sẽ để chiếu rọi người đời,dẫn dắt người có duyên đi vào con đường quang minh sáng sủa.
Tế phật: bây giờ không phải là đã mượn cho con hay sao ?
Thái sinh: đúng vậy cảm tạ ân sư.
Tế phật: bắt đầu xuất phát.
Thái sinh: con đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: nghĩ đến câu "nhân bất khả mạo tướng" thì ta nhớ đến lục tổ đại sư,ông ta ngộ đạo sâu sắc nhưng dung mạo bình thường,lại không biết chữ,cứ nghĩ ông ta là người công nhân bình thường.Còn có Huệ Minh đại sư cũng như vậy,có một lần tại Hồ Bắc,chùa Qui Nguyên mời ông giảng kinh,toàn bộ chúng tăng và phật tử xếp hàng đợi chờ 3 ngày mà vẫn không thấy bóng dáng của ông ta,mọi người cảm thấy kỳ lạ thay,đợi đến ngày thứ tư,vị trụ trì trong lúc ăn cơm nhận ra Huệ Minh đại sư mới lật đật tiếp giá tại chay đường ,thì ra Huệ Minh đại sư đã đến chùa Qui Nguyên 5 ngày trước nhưng không ai phát giác ra,haha,những vị đại sư thời trước giải thoát như vậy,tự tại như vậy.
Thái sinh: haha,đây đúng là "chân nhân bất lộ tướng".
Tế phật: do đó,cái thể xác này có gì hay đâu,qua mấy mươi năm là thành đống xương khô,nếu như không tận dụng lúc còn sống siêng tu giới định tuệ,trừ đi tham sân si,đợi khi xác thân trở thành đống cát vàng thì hối hận đã muộn.
Thái sinh: nghiệp lực đúng là lợi hại thật.
Tế phật: nghiệp lực có thể chia làm 3 loại :
1.Cộng nghiệp - là nghiệp của cộng đồng.Nghiệp lực của cộng đồng là sao ? là nghiệp do tâm của người trong xã hội tác thành,tâm người hướng thiện thì cộng nghiệp thiện,cuộc sống như thế giới đại đồng,an định tường hòa;tâm người hướng ác thì cộng nghiệp ác,cuộc sống như tận thế vậy,người nào cũng bất an.
2.Gia nghiệp - là nghiệp của cả nhà,như tổ tiên phụ mẫu thường xuyên tạo lập công đức thì con cháu đời sau hưởng phước vô cùng,còn tổ tiên phụ mẫu tạo nghiệp không dừng thì đời con cháu sau này sẽ lụn bại hoang tàn.Đúng với câu "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh,tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương".
3.Cá nghiệp - là nghiệp của cá nhân mình tạo,cũng là sai lầm của tâm khẩu ý tạo ra đem lại hậu quả đau khổ cho mình.
Được rồi,đến thế giới cực lạc rồi,mau đảnh lễ tịnh thổ tổ sư.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ tham kiến tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: đa tạ tổ sư từ bi.
Tổ sư: hiền sinh mang thân cư sĩ,cả nhà tu hành,vậy đạo lý "tại gia xuất gia,tại thế xuất thế,xuất thế nhập thế",con nên thâm nhập thể ngộ.
Thái sinh: vâng ạ,mong tổ sư từ bi khai thị.
Tổ sư: hiền sinh,đạo tràng nơi nào cũng có,gia đình tức là đạo tràng,chân tâm tức là đạo tràng,thành tâm tức là đạo tràng,lương tâm tức là đạo tràng,tín tâm tức là đạo tràng,từ bi tức là đạo tràng,nhẫn nhục tức là đạo tràng,nhưng đạo tràng thật sự lại trong tự tâm,không phải trên hình sắc.Ngày nay,người tu hành tại gia,nếu có thể tạo dựng hình ảnh gương mẫu,lúc nào cũng nhẫn nhục,hy sinh cống hiến,không tham không tranh,không thủ không xả,đó tức là gia đình đạo tràng.
Thái sinh: sao gọi là "không thủ không xả".
Tổ sư: "không thủ không xả",là cảnh giới cao nhất của thiền tông,"không thủ" là trong lòng không khởi lòng tham vọng niệm,đúng như là"tưởng thủ đắc chi tâm"."bất xả" là trong lòng không khởi ngã tưỡng chấp trước,đúng với câu"xả bất đắc chi niệm".đây chính là "bất thủ bất xả".
Thái sinh: không ngờ tâm cảnh của thiền tông lại thâm sâu như vậy,trách sao người đời khó nắm bắt bản ý chân thật của nó.....xin hỏi tổ sư "tại thế xuất thế" là ý gì vậy ?
Tổ sư: "tại thế xuất thế",là thân tại thế tục,tâm rời thế tục.đúng với câu "đi qua vườn hoa thân không dính một lá".
Thái sinh: xin thỉnh tổ sư từ bi khai thị,thế nào là "xuất thế nhập thế".
Tổ sư: xuất thế là tâm xuất thế,có tâm xuất thế là đạo tâm,là phật tâm.tâm phật,tâm đạo không được độc hưởng nên quản bố cho chúng sanh,độ người hữu duyên như tài thí,pháp thí,vô úy thí,nhập thế cứu khổ cứu nạn,đó là công việc nhập thế.Vì thế,xuất thế nhập thế là tinh thần của bồ tát.
Thái sinh: cảm tạ tổ sư từ bi khai thị,ngu sinh học được nhiều lợi ích.
Tổ sư: thật ra,công việc hiền sinh làm hôm nay chính là "xuất thế nhập thế".
Thái sinh: đệ tử không dám,đệ tử tài sơ học kém,không xứng "xuất thế nhập thế".
Tổ sư: xuất thế nhập thế,không phân giai cấp cao thấp,chỉ cần có một tấm lòng chân thành cứu độ chúng sanh,lúc nào cũng hành bồ tát đạo,từ bi,nhẫn nhục,trì giới,thiền định,bố thí,tinh tấn,đó chính là công phu xuất thế nhập thế.
Thái sinh: tổ sư quá khen,đệ tử sao có thể so bì với bồ tát,như thế không phải xúc phạm chư thiên thánh chúng sao ?
Tổ sư: hiền sinh,con phải biểt "dây cưa gỗ gẫy,nước nhỏ gạch thủng,tâm chuyên sự thành",chính vì sau khi lập đại nguyện,con toàn tâm toàn sức làm công việc phổ hóa.Sự thành tựu của Thánh Thiên đường hôm nay,nếu không phải nhờ vào nguyện lực của con thì đã bị bụi trần chôn mất.
Thái sinh: tổ sư quả nhiên thần thông quảng đại,ngu sinh một niệm một tâm đều chạy không khỏi tuệ nhãn của tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh có biết để tu hành thì sức mạnh nào lớn nhất không ?
Thái sinh: sức mạnh nào ?
Tổ sư: đó là sức mạnh phát ra thệ nguyện từ trong tâm.
Thái sinh: vì sao ạ ?
Tổ sư: vì một người phát nguyện từ trong tâm thì sẽ nhớ mãi,đó sẽ là sức mạnh lớn nhất giúp tu hành,giống đại thệ nguyện độ sinh của quan thế âm bồ tát,nhờ vậy mới có thành tựu như ngày nay,nếu như quan thế âm bồ tát lúc bắt đầu tu hành không phát đại nguyện như vậy thì làm sao thành tựu sự thật "nhà nhà quan thế âm".Lại như địa tạng vương bồ tát có đại nguyện "địa ngục không trống thề không thành phật",do đó Ngài trở thành đại giáo chủ của địa ngục,cũng như Huyền Trang đại sư lập nguyện đi tây phương lấy kinh,kết quả là đã hoàn thành sứ mệnh,những chuyện thật như vậy nói lên rằng chỉ cần có một ý nguyện kiên định đốc thúc sau lưng làm cho họ tinh tấn không ngừng nên sẽ thành công.Do đó,niệm phật vãng sanh tây phương cũng vậy,cần phải phát nguyện từ tâm,nguyện sanh thế giới tây phương cực lạc,một lòng không đổi,nếu được như vậy thì vãng sanh có hy vọng rồi.
Thái sinh: cảm tạ tổ sư khai đạo,đệ tử hấp thu được nhiều lợi ích.
Tế phật: hôm nay thời gian đã trễ,hiền đồ đảnh lễ bái biệt tổ sư,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ khấu biệt tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh miễn lễ,mau đứng dậy.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
Tế phật: tục ngữ có câu: "quân tử cầu tài,cách lấy có đạo".Nhưng trong xã hội ngày nay,gần như là "tiểu nhân tham tiền,cách lấy vô đạo".Một tờ báo lật ra toàn là chi phiếu khống,chơi hội giựt tiền hay giả danh công ty lừa hàng hóa của người khác,làm cho cõi đời này càng thêm ô trược gian trá,nhưng những người vô lương tâm này,dù có chạy đến chân trời góc bể nào cũng tránh không được ác báo đền trả.
Thái sinh: còn nhớ ân sư có nói :"biết đủ là phước,thanh tâm là lộc,tiết dục là thọ",do đó làm người chỉ cần 'biết đủ,thanh tâm,tiết dục" thì như có được"phúc,lộc,thọ" rồi,còn mong cầu gì nữa.
Tế phật: không ngờ con có trí nhớ tốt vậy,còn nhớ được lời của ta,nhưng mà nếu như lúc nào cũng nhớ niệm phật thì mới là đại phúc,đại lộc,đại thọ.
Thái sinh: đúng vậy,tây phương cực lạc có "tài bảo" xài mãi không hết,phật pháp diệu vị ăn không hết,có tuổi thọ không bao giờ hết.
Tế phật: bây giờ chúng ta đi thôi.
Thái sinh: đúng vậy,con đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: đã đến thế giới cực lạc,trước mặt bồ tát đã đến,con mau đảnh lễ.
(lúc này,Thái sinh 2 chân quỳ xuống đảnh lễ bồ tát)
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: cảm tạ bồ tát.
Bồ tát: ta dẫn con đến ao sen tham quan.
Thái sinh: vâng dạ,.....Ồ,hoa sen trong ao thật sáng sủa và tươi mát,vừa lớn vừa đẹp,đóa hoa sen nào cũng tỏa ra bảo quang ngũ sắc,trên đó còn ghi danh tánh người niệm phật,đúng là thật kỳ diệu.
Bồ tát: hiền sinh,con có muốn nói chuyện với người trong hoa sen không ?
Thái sinh: được sao ?
Bồ tát: đóa hoa sen trước mặt sắp nở rồi,đợi ta niệm chân ngôn trợ giúp,để con phỏng vấn.
<lúc này,bồ tát miệng niệm chân ngôn,quả nhiên hoa sen nở mau hơn,lập tức trồi ra một người,thật là bất khả tư nghì>.
Thái sinh: bồ tát đúng là pháp lực vô biên,hoa sen quả nhiên nở ra một người cư sĩ.
Bồ tát: hiền sinh,con hãy hỏi thăm anh ta thử xem.
Thái sinh: dạ.xin hỏi vị đại đức này,cảm tưởng của anh ra sao ?
Đại Thiện nhân: nhớ khi còn tại thế thì thật là khổ cực,vì không biết chữ,chỉ làm công việc lặt vặt tại một công xưởng,chỉ kiếm một ít tiền xài vặt,có một ngày,trong lòng cảm thấy buồn chán quá mới đến một ngôi chùa thỉnh giáo vị thầy,hỏi ông ta có cách nào giải trừ phiền não,vị thầy dạy tôi niệm phật,nói niệm phật có thể vãng sanh cực lạc,từ đó tôi bắt đầu niệm phật,lấy tất cả tiền bạc kiếm được đi ấn tống sách thiện,sau đó hồi hướng tất cả về cõi cực lạc tây phương,sau 3 năm quả nhiên phiền não của tôi ngày càng giảm dần,thân thể cảm thấy nhẹ nhàng,thường xuyên nếm được mùi vị pháp hỷ,từ đó tôi càng tinh tấn hơn,bất luận nơi đâu,trong tâm tôi đều không ngừng niệm phật,sau đến phút lâm chung được phật bồ tát tiếp dẫn vãng sanh,nhưng tự biết mình đới nghiệp(mang tội) vãng sanh,vì thế hoa sen chưa nở được liền,hôm nay hoa nở gặp được bồ tát,thật là vui quá.
Bồ tát: đó là phước đức của con trợ giúp,nếu như con không thường xuyên dấu tên tạo công đức,thì sẽ không có thiện duyên này đâu.
Đại Thiện nhân: cảm tạ bồ tát từ bi.
Thái sinh: xin hỏi bồ tát,sau khi vãng sanh,khoảng bao lâu thì hoa sen mới nở.
Bồ tát: phải xem công phu cao thấp của người niệm phật,do đó vãng sanh chia ra 9 phẩm :
1.thượng phẩm thượng sanh: sau khi vãng sanh,lập tức hoa sen nở gặp ngay phật a di đà.
2.thượng phẩm trung sanh: sau 1 đêm,hoa sen nở gặp ngay phật a di đà.
3.thượng phẩm hạ sanh: sau 1 ngày 1 đêm,hoa sen nở gặp đức a di đà.
4.trung phẩm thượng sanh: sau khi vãng sanh,hoa sen nở nhưng chỉ chứng quả vị nhỏ.
5.trung phẩm trung sanh: sau 7 ngày hoa sen nở,chỉ chứng quả vị nhỏ.
6.trung phẩm hạ sanh: cũng sau 7 ngày hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp,sau chứng quả nhỏ.
7.hạ phẩm thượng sanh: sau 49 ngày hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp,sau chứng quả nhỏ.
8.hạ phẩm trung sanh: trải qua 6 kiếp hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp để khai ngộ rồi chứng quả nhỏ.
9.hạ phẩm hạ sanh: trải qua 12 kiếp hoa sen nở,nghe bồ tát thuyết pháp để khai ngộ rồi chứng quả nhỏ.
Thái sinh: nếu như vậy,chỉ cần niệm phật vãng sanh thế giới cực lạc,thì sẽ không lưu chuyển trong lục đạo luân hồi nữa ?
Bồ tát: đúng vậy,trừ khi có người lập nguyện đi hoằng pháp lợi sanh ở một thế giới khác,không ở trong này.Do đó,phàm là người niệm phật vãng sanh,sau khi sanh ra từ hoa sen,họ sẽ một mực tu lên mãi cho đến thành phật,mãi không thoái chuyển.
Thái sinh: tại sao lại vi diệu như vậy ? con thấy những người tu hành trong đạo trường thường gãy gánh giữa đường.
Bồ tát: hiền sinh,hồng trần khổ hải,ngũ trược ác thế,đương nhiên là vậy,nhưng sau khi đến đây,con xem,toàn là làm bạn với thiện tri thức và đại bồ tát,ăn nước bát công đức,tăng trưởng trí tuệ,thân tâm an hòa thanh lương,nghe chim nước diễn pháp,tăng tiến phật trí,sẽ tự nhiên sản sinh ra tâm niệm phật,trong hoàn cảnh thù thắng như vậy làm nơi tu trì,còn hơn thâm sơn cùng cốc tại phàm trần,cũng không có nguy hiểm và phần trăm thất bại,đó là lợi ích của thế giới tây phương cực lạc.
Thái sinh: Ồ,hay thật,vậy là khi đến đây thì nhất định thành phật rồi ?
Bồ tát: đúng vậy,đa số là tu đến phật quả.Đây cũng là một trong những đại nguyện của phật a di đà : "nếu ta thành phật,bồ tát tại phương khác sanh đến đất nước ta,nếu không tu đến quả phật,ta thề không thành phật".
Thái sinh: Ồ, a di đà phật thật từ bi.
Bồ tát: a di đà phật không những từ bi,mà lúc chưa thành phật,ngài là một vị quốc vương,cha tên là Nguyệt Thượng chuyển luân thánh vương,mẹ gọi là Thù Thắng Diệu Nhan phu nhân,vì Ngài thích nghe phật pháp,nên thường đến nơi ở của Thế Tự Tại Vương Phật nghe giảng phật pháp,có một ngày,Ngài tự nhiên giác ngộ nên bỏ vương vị theo Thế Tự Tại Vương Phật xuất gia tu hành,lúc đó pháp danh của Ngài là Pháp Tạng,Pháp Tạng vì túc duyên thâm hậu,lại năng tu phật pháp,vì thế rất mau đạt thành tựu,không những thế Ngài còn quỳ trước Thế Tự Tại Vương Phật phát 48 lời nguyện.
Thái sinh: gồm những nguyện nào ?
Bồ tát: 48 lời nguyện gồm........
Tế phật: hôm nay thời giờ đã trễ,48 lời nguyện rất dài,để kỳ sau nghe tiếp.
Thái sinh: dạ,cảm tạ bồ tát từ bi,đệ tử đảnh lễ từ biệt.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,hồi sau gặp lại.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững đài sen,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 9: THĂM BỒ TÁT THUẬT 48 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT.
Tế phật: trong một cái giếng đã hư vỡ,có một bầy ếch,bọn nó cho rằng trên đời này chỉ có một cái giếng chúng đang ở thôi,hiền đồ,con nghĩ sao ?
Thái sinh: bởi vì thế mà tục ngữ có câu: "ếch ngồi đáy giếng".
Tế phật: bởi vì 3 ngàn đại thiên thế giới như biển lớn mà nơi con người ở như cái giếng,người ở trên đời như ếch trong giếng vậy.
Thái sinh: đúng vậy,trách gì bí mật của vũ trụ đến giờ vẫn là một câu đố.
Tế phật: hôm nay chúng ta sẽ khai mở một chút câu đố này.
Thái sinh: đương nhiên,quyển du ký này viết xong sẽ cho người đời hiểu rõ hơn về bí mật của vũ trụ.
Tế phật: haha,Đạo đức kinh có nói: "bậc thượng nghe đạo,siêng năng thực hành,bậc trung nghe đạo,lúc nhớ lúc quên,bậc hạ nghe đạo,thì cười lớn".
Thái sinh: đúng vậy,người có phước lớn nghe đến phật pháp thì tin liền,người không có phước,khi nghe đến phật pháp không những không trân trọng mà còn hủy báng,người như vậy thật vô phước.
Tế phật: lời chúng ta đã nói hết,tin hay không thì tùy,haha,hôm nay thời gian viết sách đã đến,trò ngoan mau ngồi vững đài sen,chuẩn bị khởi hành.
Thái sinh: dạ,con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: hồi trước,bồ tát hứa giảng nói 48 lời nguyện,con còn nhớ không ?
Thái sinh: còn nhớ,hôm nay con đã sẵn sàng lắng nghe rồi.
Tế phật: hiện tại,bồ tát đã đến tiếp dẫn,hiền sinh mau đảnh lễ.
Thái sinh: hạ sinh đảnh lễ bái kiến bồ tát.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mau theo ta đi.
Thái sinh: vâng ạ,cảm tạ bồ tát từ bi.
Bồ tát: hiền sinh có muốn biết 48 lời nguyện của phật a di đà không ?
Thái sinh: đương nhiên muốn biết.
Bồ tát: được rồi,bây giờ ta sẽ nói cho con biết.
48 lời đại nguyện của đại từ đại bi a di đà phật :
1.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,còn địa ngục,ngạ quỉ,súc sanh thì bất thủ chánh giác.
2.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,trời người thọ chung còn sa tam ác đạo thì bất thủ chánh giác.
3.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người thân không màu vàng ròng thì bất thủ chánh giác.
4.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người hình sắc bất đồng hoặc xấu đẹp khác nhau thì bất thủ chánh giác.
5.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có túc mạng thông,cho đến hiểu được các việc trong trăm ngàn ức kiếp na do tha thì bất thủ chánh giác.
6.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thiên nhãn thông,cho đến thấy được trăm ngàn ức kiếp na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
7.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thiên nhĩ thông,cho đến nghe được trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
8.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có tha tâm thông,cho đến hiểu được tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
9.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không có thần túc thông,cho đến trong một niệm không đạt tới trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
10.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn có tà tư vọng niệm,tham lam phi nghĩa,bất thủ chánh giác.
11.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn người không tu thiền định,thì sẽ diệt độ,bất thủ chánh giác.
12.giả sử sau khi ta thành phật,nếu phật quang của ta không chiếu đến trăm ngàn ức na do tha các cõi phật,bất thủ chánh giác.
13.giả sử sau khi ta thành phật,nếu thọ mệnh không đạt đến trăm ngàn ức na do tha kiếp,bất thủ chánh giác.
14.giả sử sau khi ta thành phật,nếu thanh văn la hán trong phật thổ của ta có thể đếm được,bất thủ chánh giác.
15.giả sử sau khi ta thành phật,trong phật thổ của ta,tất cả trời người thọ mạng không đạt vô lượng;trừ những người lập nguyện đến nơi khác độ sinh,bất thủ chánh giác.
16.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người còn nghe đến việc bất thiện,bất thủ chánh giác.
17.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương thế giới vô lượng chư phật không tán thán danh hiệu ta,bất thủ chánh giác.
18.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương thế giới chúng sanh có thể phát lòng tin thành kính,muốn sanh cõi nước ta,cho đến 10 niệm mà không sanh,bất thủ chánh giác.Trừ người phạm tội ngũ nghịch(1.giết cha;2.giết mẹ;3.giết a la hán;4.hủy báng phật đà,phản bội phật đà,phá hoại thân phật;5.phá hoại đoàn thể tu hành hay tăng đoàn)đại tội và hủy báng chánh pháp.
19.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương thế giới chúng sanh phát bồ đề tâm,tu tâm dưỡng tánh,tạo lập công đức,thành tâm thành ý phát nguyện,muốn sanh cõi nước của ta,đến lúc thọ chung,nếu như phật bồ tát không hiện ra trước mặt,bất thủ chánh giác.
20.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương thế giới chúng sanh,nghe đến danh hiệu ta,lúc nào cũng nhớ đến cõi nước ta,thực hành đạo đức,chí thành hồi hướng,muốn sanh nước ta,nếu như không đạt nguyện vọng,bất thủ chánh giác.
21.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trong phật thổ của ta,tất cả trời người không đủ 32 tướng đại nhân,bất thủ chánh giác.
22.giả sử sau khi ta thành phật,chúng bồ tát tại cõi phật khác sanh đến nước ta,nhất định một đời đạt quả phật.Trừ bổn nguyện độ thoát tất cả chúng sanh,du chư phật quốc,tu bồ tát hạnh,cúng dường 10 phương chư phật như lai,khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh,để thành tựu vô thượng chánh giác,bất thủ chánh giác.
23.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta nhờ phật thần lực cúng dường chư phật,trong thời gian một buổi ăn,nếu không đến được vô lượng vô số ức na do tha chư phật,bất thủ chánh giác.
24.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta ở trước chư phật,cầu vật cúng dường mà không như nguyện,bất thủ chánh giác.
25.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta không thể diễn nói tất cả trí tuệ,bất thủ chánh giác.
26.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta không có được thân kim cang na la diên,bất thủ chánh giác.
27.giả sử sau khi ta thành phật,vạn vật trong cõi nước ta vi diệu thơm sạch,hình sắc đặc biệt,không thể đếm được,nếu có thể dùng thiên nhãn thông đếm được số lượng,bất thủ chánh giác.
28.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta và trời người ít công đức không thể thấy biết đạo tràng và vô lượng quang sắc cao 4 triệu dặm,bất thủ chánh giác.
29.giả sử sau khi ta thành phật,nếu bồ tát trong cõi nước ta thọ đọc kinh pháp,diễn thuyết mà không được trí tuệ biện tài,bất thủ chánh giác.
30.giả sử sau khi ta thành phật,nếu trí tuệ biện tài của bồ tát trong cõi nước ta có hạn lượng,bất thủ chánh giác.
31.giả sử sau khi ta thành phật,nếu ánh sáng trên mặt đất cõi nước ta không thể chiếu đến 10 phương vô số bất khả tư nghì thế giới chư phật,bất thủ chánh giác.
32.giả sử sau khi ta thành phật,trong cõi nước ta,cung điện,lầu các,chùa quán,ao sen,nước chảy,hoa cỏ,cây cối và tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp bảo,trăm ngàn thứ hương thơm hợp thành,mùi thơm trải đầy 10 phương thế giới,bồ tát ngửi được đều tu phật hạnh,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
33.giả sử sau khi ta thành phật,nếu chúng sanh trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới chư phật,tiếp xúc với ánh sáng của ta,thân không mềm mại hơn cả trời người,bất thủ chánh giác.
34.giả sử sau khi ta thành phật,nếu chúng sanh trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới chư phật,nghe danh hiệu ta,không đạt sâu bồ tát vô sanh pháp nhẫn tổng trì,bất thủ chánh giác.
35.giả sử sau khi ta thành phật,trong 10 phương vô lượng vô biên thế giới,có người nữ nghe danh hiệu ta,hoan hỷ tin sâu,phát bồ đề tâm,chán ghét thân nữ,sau khi mệnh chung,còn thọ thân nữ,bất thủ chánh giác.
36.giả sử sau khi ta thành phật,10 phương vô lượng vô biên chư bồ tát,nghe danh hiệu ta,sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh cho đến thành phật,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
37.giả sử sau khi ta thành phật,nếu 10 phương vô lượng vô biên chư thiên nhân dân,nghe danh hiệu ta,năm vóc sát đất,khể thủ tác lễ,hoan hỷ tin sâu,tu bồ tát hạnh,không được chư thiên thế nhân kính trọng,bất thủ chánh giác.
38.giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong cõi nước ta muốn có y phục,tùy niệm mà có,nếu phật tán thán,pháp diệu phục tự nhiên tại thân.Nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
39.giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong cõi nước ta thọ hưởng khoái lạc,nếu không bằng lậu tận tỳ kheo,bất thủ chánh giác.
40.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta muốn thấy 10 phương phật thổ,tùy thời như nguyện,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
41.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,cho tới lúc thành phật,nếu có các căn khuyết lậu không đầy đủ,bất thủ chánh giác.
42.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,đều được thanh tịnh giải thoát tam muội,ở trong tam muội,khởi niệm cúng dường vô lượng bất khả tư nghì chư phật thế tôn mà không mất định ý,nếu không được như vậy,bất thủ chánh giác.
43.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,sau khi thọ chung sinh nhà tôn quí,nếu như không được,bất thủ chánh giác.
44.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,hoan hỷ tích cực,tu bồ tát hạnh,đầy đủ đức bổn,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
45.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,đều được tam muội,ở trong tam muội cho đến thành phật,thường gặp vô lượng bất khả tư nghì tất cả Như Lai,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
46.giả sử sau khi ta thành phật,bồ tát trong cõi nước ta tùy theo ý nguyện,nếu muốn nghe pháp,tự nhiên được nghe,nếu không như vậy,bất thủ chánh giác.
47.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,không tức khắc đạt bất thối chuyển,bất thủ chánh giác.
48.giả sử sau khi ta thành phật,chư bồ tát tha phương quốc thổ nghe danh hiệu ta,không tức khắc đạt đệ nhất,đệ nhị,đệ tam pháp nhẫn,trong phật pháp không tức khắc đạt bất thối chuyển,bất thủ chánh giác.
Sau đó,Ngài dần dần lấy những tâm nguyện này trang nghiêm phật thổ,cuối cùng cũng thành tựu thế giới tây phương cực lạc,thánh hiệu của Ngài A Di Đà Phật được 10 phương thế giới chư bồ tát,thiên nhân,chúng sinh tán thán và trì niệm.
Thái sinh: Ồ,thì ra là vậy,vì thế người đời nên tin tưởng vào sự tồn tại của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Bồ tát: haha,hiền sinh rốt cục cũng hiểu rồi,hiện tại,hoạt phật đưa con về đường.
Tế phật: mau đảnh lễ đáp tạ bồ tát,chúng ta chuẩn bị về thôi.
Thái sinh: khấu tạ ơn bồ tát khai thị.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 10: THĂM BỒ TÁT THUẬT SỰ QUAN TRỌNG CỦA VIỆC LÂM CHUNG NIỆM PHẬT.
Tế phật: haha,mấy tháng nay,vì viết sách mà vân du thế giới cực lạc,tuy rằng bận rộn,nhưng để người đời hiểu rõ bộ mặt thật của thế giới cực lạc nên lão nạp không quản nặng nhọc mà gánh vác mọi thứ.
Thái sinh: ân sư đúng là chí công vô tư,người khác lo giữ chắc môn hộ của mình còn ân sư đại khai môn hộ,dung nạp người khác,trách gì người ta gọi ân sư là Tế Công,thầy làm việc quang minh lỗi lạc,đúng như tu sĩ môn giáo nào đó tôn xưng ân sư là quang minh lỗi lạc phật.
Tế phật: hiền đồ,không ngờ con lại biễt nịnh bợ ta như vậy.
Thái sinh: không phải vậy sao ?
Tế phật: thực ra tu hành là phải chí công vô tư,nếu như có người đạo lý không nói,chỉ nói thị phi,loại người này không phải đang hoằng pháp mà đang tạo khẩu nghiệp.Hôm nay,chúng ta phụng chỉ viết sách cực lạc du ký,ý nghĩa là muốn giới thiệu cho người đời và người tu biết thêm một phương pháp tu trì,biết thêm một cõi phật mà thôi,sao có thể vì lòng tư mà hủy báng thành tựu của người khác được ?
Thái sinh: thầy nói đúng vậy,cái hay nên nói cho người khác biết,cùng nhau chia sẽ,người khác được lợi ích thì mình cũng vui.
Tế phật: vậy chúng ta lên đường thôi.
Thái sinh: được rồi,con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: haha,đang định khởi hành thì bồ tát đã đến tiếp dẫn.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ bồ tát thánh an.
Bồ tát: hôm nay biết hiền sinh đến viết sách du ký nên đến trước một bước.
Thái sinh: thật kỳ lạ,tây phương tịnh độ cách đây 10 muôn ức cõi phật,bồ tát làm sao biết trước được ?
Bồ tát: tuy rằng tây phương tịnh độ cách đây 10 muôn ức cõi phật,nhưng vẫn cùng thế giới sa bà chung ở trong thế giới Thập Phương Thức Nhiên Bảo Quang Minh,vì thế chỉ cần con người có tư tưởng quang minh,thật lòng thành tâm niệm phật thì phật bồ tát tự nhiên biết được.
Thái sinh: thì ra là vậy.
Bồ tát: từ khi viết sách cực lạc du ký đến nay,đã 10 hồi rồi,quang cảnh cực lạc gần như đã giới thiệu đủ trong sách,người đời nếu như không muốn niệm phật,thì dù cho hiền sinh nói rõ ràng từng cái cây cọng cỏ nơi thế giới cực lạc cũng vô ích.
Thái sinh: bồ tát nói rất đúng,trước mắt người đời cũng rất hiện thực,họ nghĩ rằng niệm phật chỉ có lợi sau khi chết,nên đợi đến khi gần chết mới niệm.
Bồ tát: lúc bình thường không niệm,đợi gần chết thì khó niệm.
Thái sinh: đúng vậy.
Bồ tát: thực ra lợi ích của việc niệm phật rất nhiều,đừng nghĩ sau khi chết mới có lợi ích,nên biết phật là y vương,do đó người nào thân thể có bệnh nên niệm phật cho nhiều.
Thái sinh: sao lại như vậy ?
Bồ tát: vì niệm phật có thể thống nhất tâm tư,bài trừ vọng tưởng,con xem người đời thường xuyên vọng tưởng bay nhảy,lao tâm khổ tứ,làm cho bản thân thường xuyên mất ngủ,tinh thần phân liệt,bệnh như vậy là tâm bệnh,tâm bệnh thì không có thuốc chữa,chỉ có niệm phật mới trị được tâm bệnh,vì niệm phật có thể thống nhất tâm tư,làm tâm tán loạn quy về một tâm,tự nhiên trị được tâm bệnh.đúng như quốc sư Trung Phong nói : "phật hiệu như viên ngọc sáng,vọng tưởng của chúng sanh như một ao nước dơ,viên ngọc bỏ vào nước dơ,nước dơ tự nhiên trong sạch,phật hiệu bỏ vào loạn tâm,tâm loạn tự nhiên thành phật".đó là cách trị tâm bệnh hay nhất và cũng là con đường thành phật nhanh nhất.
Thái sinh: bồ tát từ bi,xin hỏi rằng,một người bị bệnh nằm liệt giường,cứt đái dính vào giường,người nữ đến ngày kinh nguyệt,vào nhà vệ sinh,có thể niệm phật được không ?
Bồ tát: đương nhiên được rồi,cần phải biết,phật là đại từ đại bi,cũng như mặt trời phổ chiếu đất lớn,nó không phân biệt phú quí bần tiện,cũng như biển lớn dung nạp trăm sông,nó không phân sạch sẽ hay dơ bẩn;lại giống như người mẹ nhân hậu,bà làm sao bỏ rơi con cái khi nó làm cứt đái đầy giường ? do đó chỉ cần người đời thành tâm thành ý một lòng niệm phật,thì làm sao phật lại nhờm gớm sự dơ bẩn trên hình hài.Bởi vậy người có bệnh càng phải niệm phật,có người trợ niệm càng tốt.Niệm phật có thể chia làm 3 loại: 1.miệng niệm;2.ý niệm;3.quán tưởng niệm phật.nếu như vào nhà vệ sinh,để tỏ lòng tôn kính phật bồ tát,có thể ý niệm,là mặc niệm trong tâm.Nhưng phương pháp niệm đúng nhất là tâm tưởng phật,miệng niệm phật,tai nghe âm thanh niệm phật,như vậy phật âm lưu chuyển trong tâm,khẩu,ý làm cho tam nghiệp thanh tịnh,một khi công phu niệm phật ngày càng sâu,tự tâm tức là phật tâm,tự tánh tức là phật tánh,tự nhiên thành phật.
Thái sinh: đúng vậy,nếu không,đệ tử thường xuyên thấy rất nhiều người,mở miệng là văng tục,đúng thật chẳng hay.
Bồ tát: người đời có thói quen không tốt,đó là thường kết bạn với những kẻ ác,tập nhiễm mà ra,phải nên sửa đổi.Nếu như có thể mở miệng đóng miệng đều sửa thành "a di đà phật",thì có khi được người ta cung kính,càng có thể lây nhiễm người thân bạn bè tu khẩu tu tâm,thay đối thói quen nói tục ác khẩu,lâu ngày,bọn họ sẽ cũng thay miệng nói "a di đà phật",như vậy không phải là cách độ người hữu hiệu sao ?
Thái sinh: nói như vậy,đến khi lâm chung niệm phật thì thật lợi ích.
Bồ tát: đương nhiên rồi,do đó người đến lúc lâm chung cần phải niệm phật không ngừng,nếu như người thân không biết niệm phật thì cần phải khuyên họ,giải thích cho họ lợi ích của việc niệm phật vãng sanh,cùng thân thuộc trợ niệm phật hiệu,nếu như trợ niệm mệt thì luân lưu trợ niệm,làm cho phật âm lưu chuyển không ngừng.không những thế,gia quyến không nên đứng nhìn trước mặt người sắp lâm chung để khỏi làm cho tâm ái luyến khởi sanh,mà âm thanh niệm phật không nên pha vào tiếng khóc,có thể làm cho người lâm chung càng bi thương,nếu có người thân đến thăm,không nên nói chuyện tán gẫu,tránh làm cho người chết phân tâm mà quên niệm phật.Chủ yếu là giây phút thần thức người lâm chung rời khỏi thân xác,không nên ôm xác mà khóc,vì người lâm chung tuy hơi thở và nhịp tim đã ngừng,nhưng linh tánh vẫn còn trong thể xác từ 10 đến 12 tiếng đồng hồ mới rời khỏi,vì thế sẽ vẫn còn tri giác,nếu như gia quyến lúc này lập tức ôm xác khóc,lại làm cho người chết đau buồn hơn,không biết nên đi về đâu,làm mất chánh niệm sáng suốt,thì chỉ sợ chấp mê không ngộ đọa vào trong lục đạo luân hồi.
Thái sinh: ồ,vậy thì thật đáng tiếc,........nhưng tại sao tiếng khóc của người thân lại cản trở con đường vãng sanh vậy ?
Bồ tát: tại vì người niệm phật thì trong ao sen thất bảo tại tây phương sẽ sinh ra hoa sen,nếu như càng siêng năng niệm phật,hoa sen sẽ càng ngày càng lớn,hành công lập đức càng nhiều thì hoa sen càng mau lớn,đợi đến lúc người niệm phật này lâm chung,tây phương chư phật bồ tát mới lấy đài sen dưới hoa sen tiếp dẫn người niệm phật,nếu như người niệm phật đến lúc lâm chung vẫn có thể một lòng niệm phật,thì linh tánh của họ quy hướng vào đài sen,như vậy thì vãng sanh thành công rồi.Còn không,nếu như trong lúc vãng sanh,người lâm chung bị tiếng khóc nhiễu loạn,một lúc động tình ái loạn tâm,ý niệm hôn hôn trầm trầm,như thế thì sẽ trở thành hồn ma tại nhân gian,thì thật đáng tiếc.
Thái sinh: xin hỏi bồ tát,tình hình này xảy ra có liên quan đến nhân duyên nghiệp báo của mình không ?
Bồ tát: đương nhiên là có,vì một số người bình thường không niệm phật,lại không rộng kết duyên lành và hành công lập đức,nên khi lâm chung không có thiện hữu trợ giúp,thân thuộc lại chấp mê không ngộ,trong tình hình như vậy thì khó vãng sanh lắm.
Thái sinh: vì sao ạ ?
Bồ tát: bây giờ ta nói một ví dụ,đại từ đại bi a di đà phật như trăng sáng trên trời,người đời niệm phật như một cái hồ nước,khi hồ nước không sóng,trăng sáng sẽ rõ ràng,người lâm chung niệm phật cũng như vậy,lúc tâm tịnh niệm phật,phật quang phổ chiếu,phật tại trước mắt,phật tại trong lòng,cơ duyên thành thục,cảm ứng tương thông,thừa phật nguyện lực,đều được vãng sanh.
Thái sinh: ồ,thì ra là vậy.
Bồ tát: còn một chỗ phải chú ý,sau khi người lâm chung chết từ 10 đến 12 tiếng,nên tiếp tục trợ niệm,như thế mới siêu độ vong nhân,càng có thể nâng cao sen phẩm,nếu hoàn cảnh cho phép,tốt nhất cả nhà nên ăn chay 49 ngày,ngăn cấm sát sinh,như vậy thì thật lợi ích cho người chết.
Thái sinh: bồ tát thật lao khổ,giảng giải thật cặn kẽ.
Bồ tát: không có gì.
Tế phật: hôm nay đến đây kết thúc,Thái sinh hồn nhập thể xác.
HỒI 11: LA HÁN THUẬT TU TRÌ KHỔ TÂM,HIỀN SINH KHÓC THAN NGƯỜI ĐỜI KHÓ ĐỘ.
Tế phật: con nhện không thể chỉ xây một cái mạng để giữ trọn suốt đời,nó phải trải qua rất nhiều phong ba bão táp,cực khổ gian nan,thất bại hết lần này đến lần khác,đó là thử thách trong cuộc đời của nó.Làm người cũng vậy,cũng phải trải qua rất nhiều thử thách mới thành công,thành công như vậy mới chân thật,mới quí báu,mới ngọt ngào,nếu không nhờ phấn đấu mà thành công,thì là hư ngụy,ngắn ngủi,may rủi.
Thái sinh: lời của ân sư khích lệ người đời phải học tinh thần con nhện,không ngừng phấn đấu.
Tế phật: tu hành cũng vậy,bất luận là trên phương diện tu trì hay hoàn cảnh,cũng sẽ có nhiều lúc thất vọng,cứ như con chuồn chuồn trong phòng không bay ra ngoài được,nhưng chỉ cần bình tĩnh suy nghĩ thì cũng sẽ tìm được một không gian sáng sủa,để nó bay ra.
Thái sinh: đúng như "sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,liễu ám hoa minh lại một thôn".
Tế phật: haha,hiện tại rất nhiều người tu đạo cảm thấy tự mình đi vào "sơn cùng thủy tận nghi vô lộ".
Thái sinh: vậy hôm nay viết sách cực lạc du ký chính là "liễu ám hoa minh lại một thôn" rồi.
Tế phật: đúng vậy,đúng vậy,chúng ta khởi hành.
Thái sinh: vâng ạ,trò ngu đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: haha,bồ tát đã đến trước tiếp dẫn,hiền đồ mau đảnh lễ tham kiến.
Thái sinh: hạ sinh đảnh lễ tham kiến bồ tát.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: cảm tạ bồ tát từ bi.
Bồ tát: hiền sinh,mau đi theo ta.
Thái sinh: vâng ạ.
Bồ tát: hôm nay ta giới thiệu cho con biết một vị thanh văn la hán chuyên tâm niệm phật,con hãy thỉnh giáo ông ta,niệm phật vãng sanh như thế nào ?
Thái sinh: vâng ạ.
Bồ tát: Liên Căn La Hán,mau đến đây.(lúc này bồ tát gọi lại một vị la hán đang tham thiền trong rừng cây)
Thái sinh: đệ tử tham kiến la hán.
La Hán: hiền sinh miễn lễ.
Thái sinh: ngu sinh hôm nay phụng chỉ viết sách mới gặp la hán,lại thấy Ngài tiêu diêu tự tại,đúng là thật hâm mộ
La Hán: trước khổ sau vui,trước vui sau khổ,nhân duyên nhân quả một chút không do người khác,nếu muốn vãng sanh Tây Phương cực lạc,chỉ có niệm phật và tín nguyện,không có gì khác cả.
Thái sinh: không biết la hán lúc còn tại thế tu hành ra sao,hôm nay mới đến đây.
La Hán: cái này mà nói thì thật dài dòng,ta vốn tu tập pháp môn khác,nhưng sau khi được cao nhân chỉ dạy,pháp môn niệm phật là phương pháp tu trì trực tiếp nhất,đơn giản nhất,ngoài ra không còn cái nào tốt hơn.Từ đó,ta hạ quyết tâm một lòng niệm phật,vì sợ mình tín nguyện không kiên định,do đó trước thánh tượng a di đà phật,chí tâm phát nguyện,đốt 3 ngón tay,thể hiện chân tín,chân nguyện,chân hành,cầu phật từ bi nhiếp thọ mà nói :"đệ tử Liên Căn,từ vô thủy đến nay,rộng tạo thập ác bát tà,nói rõ không hết,nay được thân người,tham,sân,si,ái,niệm niệm không dứt,tương lai tuyệt đối đọa vào luân hồi,thọ tận khổ sở,hôm nay thống thiết sám hối,từ đây trở đi,quyết định niệm phật,hư không có tận,ngã nguyện vô cùng,chí tâm ai cầu a di đà phật thường đến hộ trì,đến lúc lâm chung,linh căn bất muội,thân kiến phật a di đà và chư bồ tát tiếp dẫn.Từ đó,ta niệm phật không ngừng nhưng do nghiệp chướng sâu dày nên không đạt được thượng phẩm thượng sanh mà chỉ được trung phẩm thượng sanh,tuy vãng sanh cực lạc,gặp phật nghe pháp nhưng chỉ chứng quả nhỏ,nghiệp hoặc còn chưa lậu tận,nhưng sau khi đến đây,phát hiện hoàn cảnh tu trì tốt hơn nhiều so với thế giới phàm trần,ở đây,mỗi ngày tai nghe phật âm,mũi ngửi tịnh hương,miệng ăn nước bát công đức,mắt nhìn thế giới trang nghiêm,làm bạn với bồ tát,la hán và thượng thiện nhân,phật âm lưu chuyển,chim nước diễn pháp,tiêu diêu vô tận,thọ mạng vô lượng.
Thái sinh: xin hỏi la hán,vì sao thọ mạng vô lượng ?
La Hán: vì đây là đại nguyện thứ 15 của đức a di đà : "giả sử sau khi ta thành phật,trời người trong nước thọ mạng vô lượng".Vì thế,phàm là những người đến đây đều là bồ tát bất thối chuyển,trừ những người phát nguyện sanh thế giới khác hoằng pháp độ sanh,hiền sinh là một trong số đó.
Thái sinh: không dám,không dám,ngu sinh tội nghiệp sâu dày.
La Hán: hiền sinh từ bi vi hoài,thân làm thang mây cho chúng sanh,tâm linh làm cầu đường cho tam giáo,tinh thần hy sinh cống hiến,làm ta tự trách không bằng,thì khách sáo làm gì.
Thái sinh: la hán quá khen,tiện thân tiện mạng,có gì đáng nói đâu.
(Thái sinh nói đến đây,lệ rơi như mưa,pháp nhãn của ta nhìn thấy cảnh này,pháp lực mất dần,không biết viết gì nữa.....)
La Hán: hiền sinh,không nên bi thương,từng giọt từng giọt nước mắt của con sẽ hóa thành từng đóa từng đóa hoa sen,.....(lúc này,Thái sinh mới kềm lòng gượng cười,nhưng có ai biết được tấm lòng của anh ta vì ai mà khóc).
Thái sinh: ngu sinh lúc nãy thất lễ mong la hán tha thứ.
La Hán: không sao,không sao.
Bồ tát: hiền sinh,sao hôm nay bi thương như vậy ?
Thái sinh: ngu sinh tự thấy nghiệp chướng sâu dày,nhưng lại gánh trách nhiệm phổ hóa,trở ngại thật nhiều,bất giác cảm thấy bi thương.
Bồ tát: hiền sinh,nước mắt nam nhi không dễ chảy,con có hoằng nguyện độ sanh,do đó cả đời nếm trọn cay đắng ngọt bùi,vì chúng sanh mà bỏ tình cảm riêng tư,ta đã hiểu được,không nên quá bi thương.
Thái sinh: cầu bồ tát tha thứ,ngu sinh vì định lực chưa đủ nên mới thất lễ.
Bồ tát: hiền sinh quá khách sáo,được rồi,hôm nay phỏng vấn đến đây tạm ngừng.(lúc này,Tế phật đã đến,Thái sinh đã ngồi vững đài sen,chuẩn bị ra về).
Tế phật: hiền đồ,con lấy tâm đau khổ đầu vào tâm linh của chúng sinh,như vậy không đúng đâu,trong thời gian viết sách,con không bình tâm tịnh khí,thì thật không đúng,con phải cất những bước đi bình an,dẫn dắt chúng sanh đến bến bờ chân lý,lấy tài sản chân lý của con bố thí cho những người cần chân lý,cho họ có được lương thực của tâm linh,tuy hy sinh hưởng thụ của bản thân nhưng là một dũng sĩ thật sự.Những năm gần đây,con vì đạo vụ hy sinh sự nghiệp,vì người đời xả bỏ da thịt,tuy con đi theo tinh thần Đại Vũ trị thủy nhưng phải học sự tự tại giải thoát của phật đà.Bởi nếu chỉ nhờ ý chí xông xáo thì không đủ đâu,chỉ dựa vào sức mạnh hữu hình thì có giới hạn.Do đó phải lấy động lực vô hình lâu dài làm chỗ dựa,không nên sợ người ta hủy báng mà đau lòng cũng đừng vì sự khen ngợi của người khác mà vui sướng,vì những thứ đó không thật tại và dư thừa.Hiền đồ,sự việc trên đời không có tuyệt đối,con không nên ôm ấp thật nhiều hy vọng cũng đừng mong người khác luôn thuận theo con,hãy như hư không của thung lũng mà dung nạp người,cũng như biển lớn chứa đựng nước từ muôn sông,chứ không như một cái bàn chỉ để được một vài thứ,như cái ghế chỉ ngồi được một người.Hiền đồ,làm một người gieo truyền chân lý,không thể không có phiền não mà phải xem nhẹ phiền não,làm một người có sự nghiệp phi phàm không thể không sân hận mà phải xem sân hận như không,con có thể làm được như vậy thì là người thành công.Hiền đồ,ta biết yêu cầu của thầy làm khó cho con,nhưng thà rằng con hận ta nhưng hy vọng con có thể yêu thương chúng sanh,đó là lời của ta.
Thái sinh: lời của ân sư,từng câu từng câu khắc ghi trong tâm,con xin ghi nhớ suốt đời.
Tế phật: được rồi,hôm nay thời gian đã trễ,ta về trời đây.
Thái sinh: cung tiễn ân sư.
HỒI 12: THĂM BỒ TÁT GIỚI THIỆU HOÀN CẢNH THÙ THẮNG CỦA THẾ GIỚI CỰC LẠC.
Tế phật: haha,chư sinh lâu rồi không gặp,hôm nay trong đường lại có thêm tấm bảng đen,chắc là dùng cho việc giảng đạo,lão nạp nhìn thấy thật vui,vì chư sinh Thánh Thiên một lòng một dạ tinh tấn hướng thượng,tinh thần siêng năng nổ lực như vậy mới là người tu hành thật sự.
Thái sinh: bổn đường chuẩn bị tấm bảng đen là để ân sư thượng đài giảng đạo.
Tế phật: hiền đồ,không ngờ con cũng biết phân công đó,công việc giảng đạo còn phải lao nhọc ta hay sao ?
Thái sinh: không phải,vì có nhiều người rất thích nghe ân sư giảng đạo nên con mới thỉnh thị thầy.
Tế phật: thật ra trò ngoan nên tự huấn luyện mình,công việc này con phụ trách là thích hợp nhất.
Thái sinh: có thể sao ?
Tế phật: nếu như con không làm thì vĩnh viễn không thể,nếu con cố gắng làm thì sẽ thành công.
Thái sinh: ân sư nói như vậy thì con thử xem sao.
Tế phật: được rồi,hôm nay khởi hành sớm chút xíu.
Thái sinh: ngu đồ đã ngồi vững,xin ân sư xuất phát.
Tế phật: hôm nay mưa gió bão bùng,lão nạp thấy người đời núp ở nhà coi ti vi,duy chỉ chư sinh Thánh Thiên xúm bên sa bàn xem loan tự,thật có ý nghĩa.
Thái sinh: haha,bọn họ xem truyền hình,chúng ta xem truyền thánh linh,bọn họ xem thật hứng thú,chúng ta xem mà pháp hỷ xung mãn.
Tế phật: hôm nay vì để cho con hiểu rõ thế giới tây phương cực lạc cách khổ hải hồng trần bao xa,do đó trên đường vân du sẽ kéo dài thời gian.
Thái sinh: thì ra là vậy,hèn chi lúc nãy đệ tử thấy thế giới dục giới và sắc giới,hiện tại lại thấy thế giới vô hình vô sắc,đúng là kỳ diệu.
Tế phật: đợi một chút là sẽ thấy thế giới cực lạc.
Thái sinh: không ngờ thế giới cực lạc siêu xuất tam giới,đúng là núi cao còn có núi cao hơn.
Tế phật: con hình dung như vậy không đúng.
Thái sinh: đúng vậy,thế giới cực lạc thật sự quá rộng lớn,không như hoàn cảnh cõi phàm quá chật chội,cuộc sống lại căng thẳng như vậy.
Tế phật: trước mặt là Thanh Tịnh bồ tát,Thái sinh mau đảnh lễ.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ tham kiến bồ tát,xin bồ tát chỉ dạy nhiều.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,hôm nay quí đường phụng chỉ viết sách này,là sự kỳ vọng của chư bồ tát tại tây phương,đặc biệt là hôm nay,ta không quản ngàn dặm xa xôi đến tiếp dẫn là do đức đại từ đại bi a di đà phật ra chỉ dụ.
Thái sinh: thì ra là vậy,đúng là thật cảm tạ,nhưng ngày nay do loan đường hoằng dương phật pháp,đúng là thật hiếm có.
Bồ tát: hiền sinh,không lẽ con lại có sự phân biệt môn hộ ?
Thái sinh: không dám,không dám,chỉ vì quyển du ký này là một đại kỳ tích lại vừa có tính đột phá.
Bồ tát: hiền sinh nói như vậy thật đúng,ngày nay phật pháp nhờ loan môn tuyên dương,đó là bất đắc dĩ,vì đại từ đại bi a di đà phật nhìn thấy chúng sinh đời mạt căn tánh ám muội,lại thấy loan môn đặc biệt phổ biến,do đó mới nghĩ đến chọn loan môn viết quyển sách du ký này,phát dương pháp môn tịnh độ,hiền sinh lại có duyên với phật ta,với tấm lòng chí thành hoằng nguyện độ thế nên mới có nhân duyên viết sách hôm nay.
Thái sinh: Ồ,đúng là thật may mắn.
Bồ tát: lúc này đã đến rồi,chúng ta hóng mát dưới cây đi.
Thái sinh: đến nơi đây,xa rời phàm trần nhiễu nhương,thật trang nghiêm sáng sủa,đệ tử không biết hình dung ra sao,chỉ lấy 4 chữ <chỉ biết tán thán> làm chứng cho người đời thôi.....xin hỏi bồ tát,thế giới cực lạc có nhiều bồ tát như vậy,họ tu như thế nào vậy ?
Bồ tát: có tâm tắc thành,có chí tắc thành,có tín tắc thành,đó là yếu tố chính thành bồ tát.
Thái sinh: trước mặt chim nước hót ra pháp âm êm dịu,làm con cảm giác thân tâm khinh an,pháp hỷ xung mãn,đúng là vi diệu.
Bồ tát: những loại chim nước này không phải do tội báo hóa sanh mà là do nguyện lực của phật a di đà tác thành,mục đích là làm cho pháp âm luôn lưu chuyển.
Thái sinh: đúng là vi diệu,xin hỏi bồ tát cây gỗ ở đây sao giống cây trường xuân vậy ?
Bồ tát: những cây gỗ này cũng do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật tạo thành,do đó 4 mùa không tàn,suốt năm xanh tốt,một khi gió thổi vào sẽ làm phát sanh pháp âm vi diệu.
Thái sinh: Ồ,con đã cảm giác được pháp âm đó,sau khi nghe,cả người thanh tịnh,có công năng rửa sạch phiền não,lại làm con có ý muốn niệm phật.
Bồ tát: haha,do đó những người vãng sanh đến thế giới cực lạc,một khi nghe được pháp âm,tự nhiên niệm phật.
Thái sinh: những con đường này đều là màu vàng ròng,lại rất ngay ngắn,trang nghiêm hơn nền đất gạch bông tại nhân gian nhiều.
Bồ tát: đương nhiên rồi,mặt đất toàn phủ đầy cát vàng,cũng do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật tạo thành một thế giới lý tưởng,do đó nếu người đời yêu thích vàng bạc,không bằng niệm phật vãng sanh sẽ ở chung với vàng ròng suốt ngày.
Thái sinh: haha,người giàu lấy vàng làm đồ trang sức,không ngờ đến thế giới cực lạc,vàng trở thành vật đạp dưới chân,ở đâu cũng có,đúng là khác nhau một trời một vực.
Bồ tát: haha,hiền sinh ví dụ thật hay.
Thái sinh: không dám,không dám,bồ tát quá khen,....xin hỏi bồ tát,ở đây đã siêu xuất tam giới,sao còn có hình tướng ?
Bồ tát: đó là do công đức bất khả tư nghì của đại từ đại bi a di đà phật tác thành,con xem,ở đây bồ tát nhiều vô lượng như vậy,làm sao còn trong tam giới.
Thái sinh: nếu đã siêu xuất tam giới,tại sao phàm phu nghiệp chướng sâu dày có thể vãng sanh.
Bồ tát: đó là do nguyện lực của đại từ đại bi a di đà phật,cần phải biết,chúng sanh như đang hai tay bám vào bờ vực,phải gấp gút cứu trợ.Tu các pháp môn khác như cố gắng leo lên trên vực thẳm nhưng nếu không đủ sức thì sẽ rơi xuống hố sâu.Còn tu trì pháp môn niệm phật thì không như vậy,như đang leo mà gọi người bên trên giúp đỡ,cuối cùng sống sót.Do đó người trước dựa vào tự lực mà leo,sức mạnh có hạn;người sau nhờ vào sức của mình lẫn của người thì dễ thoát hơn,vì thế mà khác nhau rất xa.
Thái sinh: nếu nói như vậy thì chỉ cần nhất tâm niệm phật,phật bồ tát sẽ nhiếp thọ tiếp dẫn.
Bồ tát: lẽ đương nhiên là "ngàn người tu ngàn người giải thoát,vạn người tu vạn người giải thoát".
Thái sinh: đây đúng là phúc âm quan trọng,vậy con cũng sẽ niệm phật thôi.
Bồ tát: hiền sinh có phải nghĩ đến vấn đề gì phải không ?
Thái sinh: cõi phàm thật đau khổ,mọi thứ trong cuộc sống,áp lực rất lớn,ví dụ như : lên lớp là cái cửa chật hẹp,do đó đi học rất khổ,kiếm việc làm cũng là cái cửa hẹp,cạnh tranh kịch liệt,so tới so lui,chỉ có niệm phật là hơn cả,tu trì dễ dàng,cái cửa thật rộng,đây không phải là một phúc âm lớn sao ?
Bồ tát: hy vọng con có thể đem phúc âm này nói cho người đời.
Thái sinh: Ừ,nhưng phải cần nhiều người thiện tâm ủng hộ mới được.
Bồ tát: lẽ đương nhiên,nhưng ta tin rằng người đời sau khi đọc sách này sẽ nhiệt liệt trợ in.
Thái sinh: hy vọng như vậy,càng hy vọng những người trợ in cực lạc thế giới du ký đều được phật bồ tát gia bị.
Bồ tát: nhất định rồi.
Tế phật: thời gian đã trễ,ta nghĩ viết sách đến đây tạm ngừng,mau khấu biệt bồ tát.
Thái sinh: đệ tử khấu biệt bồ tát,cảm tạ bồ tát khai thị.
Bồ tát: hiền sinh miễn lễ,sau này lại gặp.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
HỒI 13: THĂM TỔ SƯ THUẬT ĐẠO LÝ THẬM THÂM VI DIỆU.
Tế phật: người tu hành không được xem bề ngoài mà nhận định người,nếu không dễ lọt vào chấp trước cực đoan,vào mạt thế đến nay,người đời trí tuệ thô thiển,bệnh chấp rất nặng,chỉ xem bề ngoài mà cho rằng đó là phật sống để lễ lạy,nếu như hôm nay lão nạp đi trên đường,có lẽ chẳng ai thèm nhìn,haha,phật sống thật,phật sống giả,trò ngoan biết được là tốt.
Thái sinh: ân sư nói câu này làm con không biết nên cười hay nên khóc,người đời đều muốn tìm bảo vật,bảo vật lại ở trong tâm,người đời đều muốn tu đạo,đạo ở hai bên,người đời muốn thấy phật sống,phật sống không ai nhận ra.
Tế phật: haha,không nhận ra mới tốt,lão nạp càng tự tại,cũng như con vậy,ở trước mặt con tìm Thái sinh,không biết Thái sinh chính là con.
Thái sinh: ân sư thật biết đùa.
Tế phật: trò ngoan,con không thấy hàng giả mạo sao,rất nhiều đó,ví dụ : đồ trang sức mạ vàng rất giống vàng thật,đá cẩm thạch qua xử lý như đá quí,thủy tinh qua xử lý rất giống kim cương.
Thái sinh: haha,ân sư như một viên bảo châu thật sự,bên ngoài phủ đầy bụi trần,có ai biết được,haha.
Tế phật: vậy thì cho con mượn được rồi.
Thái sinh: được ạ,trò ngu sẽ lau sạch sẽ để chiếu rọi người đời,dẫn dắt người có duyên đi vào con đường quang minh sáng sủa.
Tế phật: bây giờ không phải là đã mượn cho con hay sao ?
Thái sinh: đúng vậy cảm tạ ân sư.
Tế phật: bắt đầu xuất phát.
Thái sinh: con đã ngồi vững đài sen,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: nghĩ đến câu "nhân bất khả mạo tướng" thì ta nhớ đến lục tổ đại sư,ông ta ngộ đạo sâu sắc nhưng dung mạo bình thường,lại không biết chữ,cứ nghĩ ông ta là người công nhân bình thường.Còn có Huệ Minh đại sư cũng như vậy,có một lần tại Hồ Bắc,chùa Qui Nguyên mời ông giảng kinh,toàn bộ chúng tăng và phật tử xếp hàng đợi chờ 3 ngày mà vẫn không thấy bóng dáng của ông ta,mọi người cảm thấy kỳ lạ thay,đợi đến ngày thứ tư,vị trụ trì trong lúc ăn cơm nhận ra Huệ Minh đại sư mới lật đật tiếp giá tại chay đường ,thì ra Huệ Minh đại sư đã đến chùa Qui Nguyên 5 ngày trước nhưng không ai phát giác ra,haha,những vị đại sư thời trước giải thoát như vậy,tự tại như vậy.
Thái sinh: haha,đây đúng là "chân nhân bất lộ tướng".
Tế phật: do đó,cái thể xác này có gì hay đâu,qua mấy mươi năm là thành đống xương khô,nếu như không tận dụng lúc còn sống siêng tu giới định tuệ,trừ đi tham sân si,đợi khi xác thân trở thành đống cát vàng thì hối hận đã muộn.
Thái sinh: nghiệp lực đúng là lợi hại thật.
Tế phật: nghiệp lực có thể chia làm 3 loại :
1.Cộng nghiệp - là nghiệp của cộng đồng.Nghiệp lực của cộng đồng là sao ? là nghiệp do tâm của người trong xã hội tác thành,tâm người hướng thiện thì cộng nghiệp thiện,cuộc sống như thế giới đại đồng,an định tường hòa;tâm người hướng ác thì cộng nghiệp ác,cuộc sống như tận thế vậy,người nào cũng bất an.
2.Gia nghiệp - là nghiệp của cả nhà,như tổ tiên phụ mẫu thường xuyên tạo lập công đức thì con cháu đời sau hưởng phước vô cùng,còn tổ tiên phụ mẫu tạo nghiệp không dừng thì đời con cháu sau này sẽ lụn bại hoang tàn.Đúng với câu "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh,tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương".
3.Cá nghiệp - là nghiệp của cá nhân mình tạo,cũng là sai lầm của tâm khẩu ý tạo ra đem lại hậu quả đau khổ cho mình.
Được rồi,đến thế giới cực lạc rồi,mau đảnh lễ tịnh thổ tổ sư.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ tham kiến tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh miễn lễ,mời đứng dậy.
Thái sinh: đa tạ tổ sư từ bi.
Tổ sư: hiền sinh mang thân cư sĩ,cả nhà tu hành,vậy đạo lý "tại gia xuất gia,tại thế xuất thế,xuất thế nhập thế",con nên thâm nhập thể ngộ.
Thái sinh: vâng ạ,mong tổ sư từ bi khai thị.
Tổ sư: hiền sinh,đạo tràng nơi nào cũng có,gia đình tức là đạo tràng,chân tâm tức là đạo tràng,thành tâm tức là đạo tràng,lương tâm tức là đạo tràng,tín tâm tức là đạo tràng,từ bi tức là đạo tràng,nhẫn nhục tức là đạo tràng,nhưng đạo tràng thật sự lại trong tự tâm,không phải trên hình sắc.Ngày nay,người tu hành tại gia,nếu có thể tạo dựng hình ảnh gương mẫu,lúc nào cũng nhẫn nhục,hy sinh cống hiến,không tham không tranh,không thủ không xả,đó tức là gia đình đạo tràng.
Thái sinh: sao gọi là "không thủ không xả".
Tổ sư: "không thủ không xả",là cảnh giới cao nhất của thiền tông,"không thủ" là trong lòng không khởi lòng tham vọng niệm,đúng như là"tưởng thủ đắc chi tâm"."bất xả" là trong lòng không khởi ngã tưỡng chấp trước,đúng với câu"xả bất đắc chi niệm".đây chính là "bất thủ bất xả".
Thái sinh: không ngờ tâm cảnh của thiền tông lại thâm sâu như vậy,trách sao người đời khó nắm bắt bản ý chân thật của nó.....xin hỏi tổ sư "tại thế xuất thế" là ý gì vậy ?
Tổ sư: "tại thế xuất thế",là thân tại thế tục,tâm rời thế tục.đúng với câu "đi qua vườn hoa thân không dính một lá".
Thái sinh: xin thỉnh tổ sư từ bi khai thị,thế nào là "xuất thế nhập thế".
Tổ sư: xuất thế là tâm xuất thế,có tâm xuất thế là đạo tâm,là phật tâm.tâm phật,tâm đạo không được độc hưởng nên quản bố cho chúng sanh,độ người hữu duyên như tài thí,pháp thí,vô úy thí,nhập thế cứu khổ cứu nạn,đó là công việc nhập thế.Vì thế,xuất thế nhập thế là tinh thần của bồ tát.
Thái sinh: cảm tạ tổ sư từ bi khai thị,ngu sinh học được nhiều lợi ích.
Tổ sư: thật ra,công việc hiền sinh làm hôm nay chính là "xuất thế nhập thế".
Thái sinh: đệ tử không dám,đệ tử tài sơ học kém,không xứng "xuất thế nhập thế".
Tổ sư: xuất thế nhập thế,không phân giai cấp cao thấp,chỉ cần có một tấm lòng chân thành cứu độ chúng sanh,lúc nào cũng hành bồ tát đạo,từ bi,nhẫn nhục,trì giới,thiền định,bố thí,tinh tấn,đó chính là công phu xuất thế nhập thế.
Thái sinh: tổ sư quá khen,đệ tử sao có thể so bì với bồ tát,như thế không phải xúc phạm chư thiên thánh chúng sao ?
Tổ sư: hiền sinh,con phải biểt "dây cưa gỗ gẫy,nước nhỏ gạch thủng,tâm chuyên sự thành",chính vì sau khi lập đại nguyện,con toàn tâm toàn sức làm công việc phổ hóa.Sự thành tựu của Thánh Thiên đường hôm nay,nếu không phải nhờ vào nguyện lực của con thì đã bị bụi trần chôn mất.
Thái sinh: tổ sư quả nhiên thần thông quảng đại,ngu sinh một niệm một tâm đều chạy không khỏi tuệ nhãn của tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh có biết để tu hành thì sức mạnh nào lớn nhất không ?
Thái sinh: sức mạnh nào ?
Tổ sư: đó là sức mạnh phát ra thệ nguyện từ trong tâm.
Thái sinh: vì sao ạ ?
Tổ sư: vì một người phát nguyện từ trong tâm thì sẽ nhớ mãi,đó sẽ là sức mạnh lớn nhất giúp tu hành,giống đại thệ nguyện độ sinh của quan thế âm bồ tát,nhờ vậy mới có thành tựu như ngày nay,nếu như quan thế âm bồ tát lúc bắt đầu tu hành không phát đại nguyện như vậy thì làm sao thành tựu sự thật "nhà nhà quan thế âm".Lại như địa tạng vương bồ tát có đại nguyện "địa ngục không trống thề không thành phật",do đó Ngài trở thành đại giáo chủ của địa ngục,cũng như Huyền Trang đại sư lập nguyện đi tây phương lấy kinh,kết quả là đã hoàn thành sứ mệnh,những chuyện thật như vậy nói lên rằng chỉ cần có một ý nguyện kiên định đốc thúc sau lưng làm cho họ tinh tấn không ngừng nên sẽ thành công.Do đó,niệm phật vãng sanh tây phương cũng vậy,cần phải phát nguyện từ tâm,nguyện sanh thế giới tây phương cực lạc,một lòng không đổi,nếu được như vậy thì vãng sanh có hy vọng rồi.
Thái sinh: cảm tạ tổ sư khai đạo,đệ tử hấp thu được nhiều lợi ích.
Tế phật: hôm nay thời gian đã trễ,hiền đồ đảnh lễ bái biệt tổ sư,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: đệ tử đảnh lễ khấu biệt tổ sư.
Tổ sư: hiền sinh miễn lễ,mau đứng dậy.
Tế phật: hiền đồ ngồi vững,chuẩn bị về đường.
Thái sinh: con đã ngồi vững,xin ân sư khởi hành.
Tế phật: Thánh Thiên đường đã đến,Thái sinh hạ đài sen,hồn phách nhập thể.
lyquochoang- Tổng số bài gửi : 87
Location : hochiminh
Registration date : 07/12/2011
Similar topics
» Sổ sinh tử
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)
» BẢO SINH ĐÀ LA NI
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt/tt
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)
» BẢO SINH ĐÀ LA NI
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)
» Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt/tt
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết